Thuyết minh về nỗi cô đơn của người chinh phụ không chỉ giúp các em hiểu rõ hơn về hoàn cảnh sáng tác, nội dung đoạn trích, nét độc đáo về nghệ thuật mà còn giúp các em học sinh lớp 10 rèn luyện kĩ năng làm văn, trở thành tác phẩm văn học. Đồng thời, có thêm kiến thức về cách phân tích nỗi cô đơn của một người chinh phục giỏi.
Đoạn trích “Chữ người tử tù” tái hiện bối cảnh xã hội phong kiến, qua đó thể hiện thái độ, tâm trạng, hoàn cảnh của những người phụ nữ có chồng khi ra trận. Vì vậy, đây là 3 trong số những bài phát biểu hay nhất về sự cô đơn của những kẻ chinh phục mà mình mời các bạn đón đọc.
Nội dung chính
Lời giải thích về sự cô độc của kẻ chinh phục
Dàn ý giải thích nỗi cô đơn của người chinh phục
1. Bắt đầu một lớp học
– Giới thiệu đoạn trích.
2. Nội dung của bài báo:
Một loại. Tác giả và Dịch giả:
- Tác giả Đặng Trần Côn
Dịch bởi Đoàn Thị Điểm, Phan Huy Ích b. Công việc:
* gõ phím:
- Nguyên văn là một bài báo ngắn với tổng cộng 476 phần
Người dịch sử dụng các bản dịch Nôm khi tụng kinh. Kết hợp thể thơ song thất lục bát. * Thành phần:
– Khởi nghĩa Thành Hoàng trong bối cảnh nhiều cuộc nổi dậy của nông dân tiếp tục diễn ra xung quanh thành Thăng Long vào những năm đầu đời vua Lê Hiển Tông, khiến triều đình phải dàn quân đánh dẹp. Nhiều nam thanh nữ tú đã phải tòng quân, bỏ lại vợ con ở nhà trong đau thương.
* các nội dung:
- Căm thù những cuộc chiến tranh phi nghĩa.
Sự thể hiện khát vọng tình yêu, hạnh phúc của con người là một nét mới trong cảm hứng nhân đạo của văn học thế kỉ XVIII. C. Trích đoạn “Độc cô cầu bại”:
* Nơi:
– Nằm trong các Phiên từ 193 đến 216 của Chương trình Nôm.
* Bố cục bốn phần:
- Nửa câu đầu “hiên nhà vắng… thân nhiều” thể hiện sự lo lắng, mong đợi của người chinh phụ.
Đoạn hai tiếp tục “… như biển xa”, cảm giác chờ đợi lâu của người chinh phục. Phần thứ ba sau “Thần kinh đứt đoạn, mấu chốt là sợ hãi” là nỗ lực thoát khỏi nỗi cô đơn tột cùng của người chinh phụ. Đoạn văn còn lại là lời chia buồn cùng chồng của người chinh phụ. * Mạch cảm xúc:
- Phần thứ nhất: Thế giới tâm trạng của người chinh phụ được thể hiện qua những hành động lặp đi lặp lại, thể hiện sự lo lắng mong chờ, khắc khoải và nỗi cô đơn trống vắng của người chinh phục. Không chỉ thể hiện tâm trạng của nhân vật trữ tình bằng những động tác vô thức lặp đi lặp lại, Đặng Trần Côn còn khắc họa nó qua hình ảnh ngọn đèn vô tri, người bạn duy nhất mà người chinh phụ có thể chia sẻ nỗi niềm. đau buồn của mình.
Phần thứ hai: Tiếng gà “gáy leng keng” và những cành cây rung rinh mờ ảo càng gợi tả rõ hơn cảnh thường trực nỗi cô đơn, lo âu của người phụ nữ. Phần ba: The Conqueror cố gắng vượt qua nỗi cô đơn và nỗi nhớ bằng nhiều hành động khác nhau, nhưng nỗi nhớ và sự cô đơn dường như ngày càng mạnh mẽ hơn. (thắp hương, trang điểm, đánh đàn). Phần IV: Nỗi cô đơn trống vắng của Chinh phụ ngâm tiếp tục được truyền tải qua hình ảnh thiên nhiên. * Nét nghệ thuật:
- Bằng cách miêu tả động tác, tư thế, dáng điệu và ngoại cảnh của nhân vật đã miêu tả và bộc lộ thành công tâm trạng nhân vật, đồng thời biến thế giới vô hình thành thế giới vô hình.
Việc sử dụng linh hoạt thể thơ lục bát trong bài ca dao có nhịp điệu, kết hợp với hệ thống từ ngữ biểu đạt có ý nghĩa to lớn trong việc thể hiện thế giới nội tâm của nhân vật. 3. Kết luận:
Tóm tắt nội dung và nghệ thuật tiêu biểu.
CŨNG XEM: Cảm Xúc Đoạn Trích Tình Yêu Cô Đơn Của Người Chinh Phục
Tuyên bố của Người kể chuyện – Mẫu 1
Nho giáo là tác phẩm nổi tiếng bằng chữ Hán của nhà văn Đặng Trần Côn và dịch giả Đoàn Thị Điểm. Được tạo ra vào nửa đầu thế kỷ 18, thời kỳ xã hội phong kiến đầy biến động. Người dân thời kỳ này luôn phải sống cảnh không nhà, ly tán, đặc biệt là những người phụ nữ phải bỏ chồng đi chiến đấu. The Wet Concubine cho người đọc thấu hiểu và cảm thông cho những mảnh đời bất hạnh của những người phụ nữ không được sống hạnh phúc trọn vẹn. Đoạn 476 có độ dài khác nhau, và lời kể của Qingfu để lại một dấu chấm lửng đáng thương và đáng thương trong lòng người đọc.
Trong cuộc đời mỗi người luôn có một mùa xuân tươi đẹp. Đây là khoảng thời gian tươi đẹp nhất, cuộc sống mang nhiều màu sắc rực rỡ. Nhưng đối với con người trong xã hội phong kiến, đặc biệt là phụ nữ, họ đã phải hy sinh cả tuổi thanh xuân của mình để hoài niệm cuộc sống, chờ mong gia đình trở về. Mở đầu đoạn trích, tác giả cho người đọc thấy được nỗi cô đơn, nhớ nhung của người chinh phụ trong tình trạng đời thường, nỗi nhớ nối tiếp nỗi nhớ mong.
“Đứng ngoài hiên vắng lặng gieo từng bước
ngồi trên màn và hỏi fen
Bên ngoài rèm, kích thước không quan trọng
Dường như có một ánh sáng trong bức màn
Ánh sáng biết như thể nó không biết
Trái tim tôi chỉ đáng thương
buồn và không nói nên lời
Chiếc đèn lồng với chiếc bóng thật dễ thương “
Tâm trạng của người chinh phụ lặp đi lặp lại một nỗi nhớ khôn nguôi. Em không làm gì được, em chỉ nhớ và mong được gặp lại một bóng hình quen thuộc đã lâu không gặp. Không gian tĩnh lặng đến đáng sợ ấy, chỉ được thể hiện bằng hai chữ “vắng” và “thưa” đã mang đến một nỗi buồn khôn tả. Người chinh phục không thể ngồi yên, và sự lo lắng của anh ta không bao giờ nguôi ngoai.
Cô vén màn và nhìn về phía xa xăm, nhưng cuối cùng, cô không nhận được phản hồi từ chồng. Cô ấy đã mất ý thức về hành động của mình, và cô ấy không còn quan tâm đến cuộc sống xung quanh mình, chỉ vì cô ấy đang chờ đợi tin vui từ xa. Cô lẩn quẩn trong căn phòng của mình, ngọn đèn làm bạn hết ngày này qua ngày khác. Ngọn đèn ấy là vật vô tri, vô giác, vô hình, nhưng chứng kiến bao nỗi niềm day dứt khôn nguôi của người chinh phụ.
Chợt cô nhận ra ngọn đèn ấy chỉ có thể ở bên cạnh mình chứ không thể tâm sự cùng cô. Hơn nữa, đèn có khi sáng rồi cũng tàn, cũng giống như cô, nỗi nhớ vô hình khiến tuổi trẻ và cuộc đời của cô cũng nhanh chóng biến mất. Cũng như ca dao xưa, tác giả cũng mượn đèn để nói lên nỗi nhớ nhung của người phụ nữ.
“Ngọn đèn nhớ người, ngọn đèn không bao giờ tắt”
Những không gian gắn với nỗi nhớ của người chinh phụ qua những câu thơ sau. Cảnh đẹp bình yên đến đâu mà lòng người không cảm nhận được thì vẫn chưa trọn vẹn:
“Năm dậu có sương.
Bóng tối lung linh và rủ xuống xung quanh
Khắc trong vài năm
Nỗi buồn như biển xa “
Cảnh vật xung quanh có liên quan đến tâm trạng của người phụ nữ. Tiếng gà trống kêu “eo ót” và sương mù hiện rõ, nhưng người chinh phục không quan tâm và không muốn cảm nhận. Không gian yên bình nhưng cảm xúc trong lòng người chinh phục là sóng gió, dữ dội. Đối với Chinh Phục, mỗi giây mỗi phút của quá khứ đều dài như vậy, và chắc chắn rằng quãng thời gian dài đó luôn đi kèm với một nỗi nhớ không bao giờ nguôi.
Tác giả đã sử dụng thành công những từ ngữ để miêu tả nỗi cô đơn của người chinh phụ. Khung cảnh êm đềm bao nhiêu thì lúc này cô lại cảm nhận được sự lạnh lùng bẩm sinh. Một không gian hiu quạnh hiện ra, chỉ có mình nàng ở giữa không gian bao la, nhớ nhung người chồng xa xứ.
“Hương thơm đốt cháy tâm hồn đang mải mê
Gương buộc phải nhìn lại Châu chan
Bàn tay sắt Ngón tay chơi Guitar
Dây thần kinh bị đứt, chìa khóa sợ lỏng lẻo ”
Conqueror bắt đầu quan sát mọi thứ xung quanh cô ấy và tìm thấy chính mình sau khi mất ý thức về mọi thứ. Cô bắt đầu soi gương, lấy lại niềm hạnh phúc, thắp hương và cảm nhận lại mọi thứ, lật chìa khóa và nhớ lại những kỷ niệm đẹp của hai vợ chồng. Nhưng sau tất cả, cô chỉ nhận lại một nỗi sầu thảm. Ngay lúc đó, trong lòng cô chợt linh tính rằng mình đang lo lắng cho người chồng ở xa.
Bằng ngòi bút trữ tình của mình, tác giả đã lột tả được nỗi cô đơn, trống trải của người phụ nữ xuyên suốt từ đầu tác phẩm, người luôn bị nỗi cô đơn chi phối và lấp đầy cho dù cô ấy có làm gì đi chăng nữa. Cảm xúc của người chinh phục không thể giải tỏa, nhưng luôn đồng hành cùng cô ấy trong từng giây phút, từng khoảnh khắc. Cô ấy chết dần, chết mòn như ngọn đèn thời trẻ, sáng lấp lánh rồi vụt tắt tự lúc nào không hay.
Cho đến tận cùng, người chinh phụ ghim nỗi nhớ vô tận của mình vào thiên nhiên, để thiên nhiên đưa chồng đi nơi chiến trường không bao giờ trở lại:
“Gửi trái tim này về phương đông có tiện không?
Vui lòng gửi không phải yên
Non Yen ngay cả khi tôi không đến khu vực này
Nhớ bạn sâu sắc, đường đến thiên đàng
Bầu trời thật sâu, thật xa
Tôi nhớ bạn nhiều lắm
Cảnh buồn, người nghiêm túc,
Những cành sương giăng đầy tiếng mưa rơi. “
Người chinh phụ đem hết nỗi nhớ thiên nhiên đất trời cho chồng. Không gian càng lớn, nỗi nhớ càng dài. Khoảng cách bây giờ dù có xa đến mấy cũng không ngăn được nỗi nhớ về anh. Các từ “sâu”, “đắng” cho biết nỗi nhớ luôn đong đầy trong lòng người chinh phục.
Cô chọn cách gửi từng nỗi nhớ của mình qua thiên nhiên, cầu xin thiên nhiên gửi vào anh, để cô trở về với cuộc sống hiện tại, luôn trong tâm trạng khắc khoải chờ chồng trở về. Chỉ có tám dòng cuối nhưng tác giả đã diễn tả một cách sinh động tâm lý nhân vật. Hãy dùng những từ ngữ cảm động hơn để thể hiện nỗi nhớ nhung người chinh phụ sẽ luôn giấu kín trong đáy lòng.
Người kể chuyện của Đặng Trần Côn không chỉ tái hiện bối cảnh xã hội phong kiến mà còn cả thái độ, tình cảm, hoàn cảnh của những người phụ nữ có chồng khi ra trận. Hơn nữa, tác phẩm còn là tiếng nói của tiếng lòng, sự đồng cảm của tác giả đối với nỗi vất vả và số phận của người chinh phụ. Sự lên án, phê phán xã hội phong kiến đã đẩy con người đến tình cảnh bi đát như vậy.
Giải thích về hoàn cảnh cô đơn của Kẻ chinh phục – Mẫu 2
Hoàn cảnh đơn độc của người chinh phụ được trích trong Chinh phụ ngâm khúc, nguyên bản chữ Hán là của tác giả Đặng Trần Côn, có nhiều ý kiến tranh cãi về người dịch, nhưng đến nay đều thống nhất là Đoàn Thị Điểm. Là một trong những tác phẩm hay nhất của văn học thế kỉ 18, nội dung nhân đạo mới không chỉ thương cảm cho những số phận bất hạnh của con người mà hướng đến sự trân trọng. Ca ngợi con người, nhất là những người phụ nữ trong chế độ phong kiến có khát vọng hạnh phúc chính đáng. Có rất nhiều bất công.
Về tác giả Đặng Trần Côn được cho là một trong những nhà văn bí ẩn nhất trong nền văn học Việt Nam, với rất ít tư liệu và dường như không có ghi chép nào đáng kể. Chỉ biết rằng Đ g Trần Côn sống vào nửa đầu thế kỷ 18, quê ở làng Nhân Mục huyện Thanh Trì (nay là Thanh Xuân, Hà Nội). Tương truyền, ông là người thông minh, hiếu học, thi đỗ khoa Hồng Công. Ngoài tác phẩm Chinh Phụ Ngâm nổi tiếng nhất, sự nghiệp sáng tác của ông còn có các tác phẩm thơ văn chữ Hán như Tiêu Tương Bát Cảnh, Tùng Bách Thuyết Đối Thoại, Bích Câu Chuyện, …
Về người dịch, có bốn bản dịch của Qingfu, được dịch bởi các tác giả khác nhau, trong đó bản giấy được lưu hành rộng rãi nhất và phổ biến nhất. Cho đến ngày nay, vẫn còn nhiều tranh cãi về việc liệu bản dịch này là của Duẩn Shiting hay của Pan Huiyi. Nói đến Duẫn Tầm, nàng được coi là người phụ nữ xinh đẹp và tài năng nhất trong các nữ thi sĩ thời trung đại. Sinh năm 1705, mất năm 1748, bí danh Honghe nữ học giả, quê ở Ôn Giang, nay thuộc tỉnh Hình An, danh nhân Zhimeiren. Tuy nhiên, đường tình duyên của cô lại thuận buồm xuôi gió, cô kết hôn ở tuổi 37. Chồng cô là bác sĩ Ruan Qiao, không lâu sau khi kết hôn, cô phải đi bôn ba ở một nơi xa, có lẽ điều này đã khiến Duẩn Shidian rất buồn và buồn. Cảm thông sâu sắc với người chinh phụ trong bài thơ Qingfu ngâm thơ, nên tôi đã dịch bài thơ này. Về giả thiết người dịch là Pan Hui Il, ông sinh năm 1750 mất năm 1822. Ông là Đỗ An, quê gốc ở Hà Tĩnh, sau chuyển đến Quách Huệ phi, nay là Hà Nội, lấy bằng tiến sĩ. 26 tuổi.
Chinh phụ ngâm khúc, nguyên bản viết theo thể thất ngôn bát cú, gồm 476 bài thơ lục bát dài ngắn khác nhau. Người dịch thường sử dụng các câu cảm thán, than phiền và đau đớn để thể hiện suy nghĩ và cảm xúc của mọi người. Kết hợp với thể thơ dân tộc song thất lục bát gồm hai câu bảy chữ, một câu sáu chữ, một câu tám chữ làm cho thể thơ này có tính nhạc, uyển chuyển và dân tộc hơn.
Cuộc khởi nghĩa của Hoàng đế trong bối cảnh của nhiều cuộc nổi dậy của nông dân liên tục xảy ra xung quanh thành Thăng Long vào những năm đầu của đời vua Lý Hiển Tông, khiến triều đình phải điều quân để đánh bại nó. Nhiều nam thanh nữ tú đã phải tòng quân, bỏ lại vợ con ở nhà trong đau thương. Bằng sự đồng cảm, thương cảm sâu sắc với hoàn cảnh của những người vợ lính xa quê, Đặng Trần Côn đã sáng tác bài thơ Chinh phụ ngâm để bày tỏ sự thấu hiểu, chia sẻ với cảnh ngộ của những người phụ nữ ấy. Nội dung chính của tác phẩm tập trung chủ yếu ở hai điểm đầu là lòng căm thù chiến tranh phi nghĩa, chủ đề thứ hai thể hiện khát vọng tình yêu, hạnh phúc của con người, đây là một nét mới. Trong cảm hứng nhân đạo văn học thế kỉ XVIII.
Đoạn trích Độc Cô Cầu Bại từ câu 193 đến câu 216 của bài Nôm. Kiểu chữ của đoạn trích có thể chia làm ba phần, phần thứ nhất là bài “Chuyến đi không người thân”, thể hiện sự lo lắng, mong đợi của người chinh phục, phần thứ hai là “… như biển xa”. , Thời gian chờ đợi mòn mỏi của kẻ chinh phục, Phần ba “Thần kinh bị phá vỡ, nỗi sợ hãi của sự thư giãn” là cuộc đấu tranh để thoát khỏi sự cô đơn tột độ của Kẻ chinh phục. Chồng của kẻ chinh phục. Vì vậy, chúng ta có thể kết luận rằng chủ đề của đoạn trích là nỗi cô đơn chênh vênh của người chinh phụ, người luôn khao khát một cuộc sống hạnh phúc, bình yên bên chồng con. Mỗi phần của đoạn trích đều thể hiện điều này một cách linh hoạt.
Trong đoạn đầu tiên:
“Gieo lặng lẽ dưới hiên bước từng bước
ngồi trên màn và hỏi fen
Bên ngoài rèm, kích thước không quan trọng
Dường như có một ánh sáng trong bức màn
Ánh sáng biết như thể nó không biết
Trái tim tôi chỉ đáng thương
buồn và không nói nên lời
Chiếc đèn đó và một hình khá dễ thương. “
Thế giới tâm trạng của người chinh phục được thể hiện qua những động tác lặp đi lặp lại, từ đi đi lại lại trước hiên nhà hiu quạnh, bước nặng trĩu, trầm mặc, đến ngồi bên rèm mà sững sờ, bộc lộ những nội tâm, lo lắng, bất an của người chinh phục. Đứng ngồi không mệt mỏi, người chinh phục ngừng đóng rèm, lại mở ra, nhìn ra ngoài và thẫn thờ nhìn vào ánh đèn mờ ảo, thể hiện sự lo lắng mong đợi và ngậm ngùi của người chinh phục về sự trống trải và cô đơn. Không chỉ thể hiện cảm xúc của nhân vật trữ tình bằng những động tác vô thức lặp đi lặp lại, Đặng Trần Côn còn miêu tả cảnh vật ấy qua khung cảnh xung quanh, nơi hình bóng ngọn đèn vô tri trở thành người bạn duy nhất của người chinh phụ, sẻ chia nỗi niềm. Nhưng chính vì ngọn đèn này không có sự sống, nó chỉ lộ ra mặt của kẻ chinh phục, và ngọn đuốc đó không bao giờ có thể an ủi và vỗ về kẻ chinh phục, dẫn đến sự cô đơn hơn. Nên rõ ràng hơn.
đoạn tiếp theo:
“Năm dậu có sương.
Bóng tối lung linh và rủ xuống xung quanh
Khắc trong vài năm
Nỗi buồn như biển xa “
Tiếng gà trống “rì rào” là một từ tượng thanh hay cho khung cảnh ảm đạm và hiu quạnh của một buổi sáng thê lương, kết hợp với những cành lá rung rinh càng ngày càng có giá trị. Không ngừng chinh phục phụ nữ trong cô độc. Làm nổi bật cảnh tượng cô đơn, hơn bao giờ hết, kẻ chinh phục thấy cảnh thời gian dần trôi qua, vô vị và kèm theo nỗi buồn vô tận trong lòng.
Đến đoạn thứ ba, Người chinh phục cố gắng vượt qua nỗi cô đơn và nỗi nhớ bằng nhiều hành động khác nhau, nhưng nỗi nhớ và sự cô đơn dường như ngày càng mạnh mẽ hơn.
“Hương thơm đốt cháy tâm hồn say đắm.
Gương buộc phải nhìn lại Châu chan
Bàn tay sắt Ngón tay chơi Guitar
Dây thần kinh bị đứt, chìa khóa sợ lỏng lẻo ”
Thắp hương cầu mong sự bình yên, che chở trong thế giới tâm linh nhưng bản thân chị ngày càng chìm đắm trong nỗi sầu muộn “đa tình”. Chỉnh sửa khuôn mặt và tìm niềm vui trong việc trang điểm, nhưng đối mặt với nỗi cô đơn, khi nhận ra khuôn mặt ngày càng mệt mỏi và kém tươi trẻ, tôi càng hiểu sâu sắc hơn tình trạng khó khăn của mình. Khi người vợ đi tìm thú tiêu khiển, cô ấy phải lo lắng, sợ dây sẽ đứt mang đến điềm gở.
Ở đoạn cuối, nỗi cô đơn của người chinh phụ tiếp tục được truyền tải qua hình ảnh thiên nhiên.
“Trái tim này tiện gửi gió đông.
…
Cành sương rơi đầy tiếng mưa hoa ”
Đoạn thơ đã tái hiện không gian khoảng cách giữa người chinh phụ và người chinh phụ, qua điệp từ “non yên” nói về nơi người chồng chiến đấu, và qua hai câu thơ “Đường lên em nhớ anh bao nhiêu. Bằng những ngày tháng. / Ngày sâu và xa ”, mô tả khoảng cách ngàn dặm, không thể vượt qua. Tuy nhiên, nhà chinh phục hoài cổ đã tìm ra một giải pháp tốt, đó là trao cho Dongfeng chiếc “vàng con gái” hoài cổ để cùng mình ra tiền tuyến. Rồi cuối cùng quay lại đối mặt với bi kịch cô đơn của mình.
Từ những nét đặc sắc về nghệ thuật, ta thấy ở đoạn trích này, nét nghệ thuật chủ yếu là miêu tả thành công, bộc lộ trạng thái tâm tư của nhân vật, làm cho thế giới vô hình trở nên vô hình thông qua miêu tả, các hành động, dáng điệu, tư thế và bản chất bên ngoài. Thứ hai là việc sử dụng linh hoạt thể song thất lục bát, cùng với giá trị biểu đạt của hệ thống từ ngữ có ý nghĩa to lớn đối với việc thể hiện thế giới nội tâm của nhân vật.
Tóm lại, “Chinh phụ ngâm khúc, đặc biệt là hoàn cảnh cô đơn của Chinh phụ ngâm” là một tác phẩm hay và xuất sắc trong văn học trung đại Việt Nam thế kỉ XVIII, mang đậm giá trị nhân văn. và hạnh phúc của người dân và phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Hơn nữa, đây còn là tác phẩm gián tiếp lên án tội ác của cuộc chiến tranh vô nghĩa và sự bất lực của các tòa án trong việc giữ bình yên cho người dân.
Giải thích về tình huống cô đơn của Người chinh phục – Mô hình 3
Chinh phụ ngâm nguyên bản chữ Hán do Đặng Trần Côn sáng tác. Bản Nôm hiện nay, được nhiều ý kiến đồng thuận, thuộc về dịch giả Đoàn Thị Điểm. Bị thời cuộc lay động, Đặng Trần Côn đã viết bài Văn tế phục hưng trước cảnh chiến tranh liên miên hồi đầu thế kỷ 18. Thông qua tâm tư, tình cảm về nỗi cô đơn, buồn tủi của người chinh phụ, tác phẩm thể hiện lòng căm thù chiến tranh phong kiến phi nghĩa, đặc biệt là niềm khao khát tình yêu, hạnh phúc của đôi trai gái. Bản dịch thể hiện đầy đủ tài năng của tác giả và dịch giả trong việc thể hiện trạng thái tâm lý vô cùng tinh tế và phức tạp của người vợ nhớ chồng.
Về bản dịch Chinh phụ ngâm, hiện có bảy bản dịch và phóng tác, đó là “Song Na lục bát” (bốn quyển) và sáu tám (ba quyển), các dịch giả: Đoàn Thị Điểm, Phan Huy Ích, Bạch Liên Am Nguyên và hai tác giả ẩn danh, không rõ bản dịch. Đặc biệt là bản dịch thành công và phổ biến nhất mọi thời đại, với 412 câu (bản in Nôm cũ vẫn còn tồn tại (1902, AB26), hoặc 408 câu (một bản khác được lưu giữ trong thư viện Pa ri) Có người nói là của Đoàn Thị. Diễm, có người nói nó thuộc về Phan Huy Ích.
So sánh bản dịch của cô với bản Khổng Tước, tôi thấy bản dịch rất thẳng thắn, ca từ êm đềm, ảo não, rõ ràng là giọng nói của một người đàn bà buồn, nhưng dường như buồn nhiều hơn là đau và không tới. Văn xuôi và giọng điệu ai oán thực sự là một cảnh tượng của văn học nghệ thuật. Bản dịch được viết dưới dạng “phòng đôi”. Nhiều đoạn văn được sắp xếp thành một hàng, chữ cuối của câu trước chuyển thành chữ đầu của câu sau, cứ thế dài ra thành nhiều câu, phù hợp với nỗi niềm day dứt khôn nguôi của người chinh phụ.
Người chinh phục xuất thân cao quý, và cô đã sai chồng mình đi thám hiểm, hy vọng rằng anh ta sẽ trở nên nổi tiếng trong yên ngựa và trở về một cách vinh quang. Bị thu hút bởi sự cô đơn, cô nhận ra tuổi trẻ của mình ngày càng phai nhạt, hạnh phúc vợ chồng ngày càng xa rời. Người chinh phụ rơi vào trạng thái cô đơn tột độ. Bài ca diễn tả nỗi cô đơn của kẻ chinh phục. Đoạn trích diễn tả nỗi cô đơn của người vợ lẽ trong cảnh đợi chồng.
Trong suốt cuộc đời của Qingxiong, chiến tranh liên tục, từ Lý Mai đến chiến tranh, và sau đó đến Zheng Ruan để kéo dài xung đột, đất nước bị chia làm hai dưới ngai vàng thối nát, và sau đó các cuộc nổi dậy của nông dân nổ ra khắp nơi. Con người sống trong cảnh nồi niêu, chiến tranh, chiến tranh, cha mẹ xa con, vợ xa chồng. Văn học thời kỳ này tập trung phản ánh bản chất thối nát, bộ mặt tàn ác của chế độ phong kiến và nỗi thống khổ của con người đối với những nạn nhân của hệ thống xã hội này. Sự ra đời của người vợ hờ của Đặng Trần Côn được nhiều nhà Nho đồng cảm. Nhiều bản dịch Chinh phụ ngâm ra đời, trong đó bản dịch của Đoàn Thị Điểm là thành công nhất, người dịch đã gặp ở đó sự đồng cảm sâu sắc.
Hình ảnh nổi bật của Chinh phụ ngâm là hình ảnh một người chinh phụ đang phải vật lộn với bao mong chờ, đợi chờ. Người chinh phụ xuất hiện trong tiếng hò với ước nguyện của người hầu và ước nguyện về hạnh phúc lứa đôi. Người phụ nữ quý tộc phong kiến lớn lên trong nền giáo dục Nho học này cũng hy vọng và tự hào về hình ảnh một người chồng dũng cảm:
Một người đàn ông trẻ tuổi của dòng máu cao quý
Sắp xếp bút theo cung
Qing muốn đến Longtai
Sword đã quyết định không sử dụng thiên địch
Tôi đã làm một người đàn ông trong hàng nghìn tấm da
Gieo Taizi nhẹ như hoa hồng
Nhưng sau bao ngày mòn mỏi chờ chồng, cô rơi vào tâm trạng cô đơn, tuyệt vọng và bắt đầu than thở. Qua tâm trạng của người thiếu phụ, khúc tráng ca là tiếng nói than thở chiến tranh phong kiến đã chà đạp lên hạnh phúc vợ chồng.
“The Conqueror” là một tác phẩm trữ tình, và tác phẩm chỉ còn lại tâm trạng của nhân vật trữ tình chinh phục từ đầu đến cuối. Carol được phát triển theo tâm trạng và nỗi nhớ của người chinh phục. Đoạn trích trong Nỗi cô đơn của người chinh phụ nói lên tâm trạng của người chinh phụ. Nội công có thể thay đổi được thể hiện bằng những từ ngữ miêu tả ngoại hình, hành động và cách cư xử của người chinh phục. Cô thiếu nữ trong “Ân oán truyền kiếp” của Vương Tú Linh vẫn thản nhiên trang điểm má hồng lên lầu thưởng ngoạn cảnh sắc mùa xuân, chỉ cần nhìn sắc liễu mới có thể tỉnh lại nỗi cô đơn, còn người phụ nữ thích chinh phục này thì luôn chìm đắm trong cô đơn. Những mong đợi mệt mỏi và vô vọng khiến cô thậm chí còn phải trang điểm, công việc quan trọng nhất đối với một người phụ nữ áo tím như cô:
cây trâm đáng xấu hổ,
Tóc rối bù xù, xõa ngang lưng.
Nỗi xót xa của người thiếu phụ trong cảnh đợi chồng đánh trận khiến chị như mất hết sức lực, như người mộng du ở nhà:
Nó giống như một người nghiện bóng tối,
Bỗng thơ bay bổng như hư không.
Sự chờ đợi trong vô vọng khiến tinh thần cô tê liệt. Tác giả miêu tả trạng thái tâm lý phức tạp của người thiếu nữ thông qua việc miêu tả ngoại hình. Người phụ nữ trẻ tỏ ra mệt mỏi và buông xuôi, và nỗi cô đơn hành hạ thể xác và tinh thần của cô gái trẻ khiến khuôn mặt cô tái mét và tái nhợt. Sự cô độc bao trùm không gian và thời gian, cả ngày lẫn đêm. Căn nhà đầy hiu quạnh. Chỉ có thiếu nữ đang đối mặt với ngọn đèn, và sự cô đơn càng rõ ràng hơn. Sự cô đơn đáng thương đó được hiển thị rõ ràng trong bức ảnh này:
Bước từng bước trên mái hiên yên tĩnh
Trong không gian tĩnh mịch của màn đêm, bước chân chậm rãi như gieo vào lòng người một tiếng cô đơn. Pushkin càng cô đơn hơn bởi tiếng lục lạc đơn điệu trên con đường mùa đông hoang vắng, và người chinh phục càng cô đơn hơn bởi tiếng bước chân. Nỗi đau âm thầm nhưng ngập tràn khiến cô khao khát được đồng cảm. Nhưng trước mặt cô chỉ có một tia sáng. Đèn sẽ hiểu, hoặc sức nặng của sự cô đơn và khao khát sẽ đổ lên đầu cô. Đèn chỉ là một vật vô tri, “biết bằng không”:
Đèn biết như thể nó không biết,
Trong lòng chỉ có điều đáng tiếc.
buồn không nói nên lời,
Một chiếc đèn lồng khác với hình bóng khá yêu thương.
Cảnh vật không chung với người chinh phụ mà cộng hưởng với nỗi niềm của người chinh phụ, khiến nàng thêm đau đớn, xót xa hơn. Sự chờ đợi ngày càng trở nên tuyệt vọng. Dường như thiếu nữ quanh năm mất ngủ, bị nỗi nhớ hành hạ:
Năm con gà trống cheo leo với sương,
Bóng hè chập chờn quanh quẩn.
Người dịch sử dụng những từ thuần Việt rất hợp lí như “não tàn”, “phũ phàng” vừa để tả cảnh nhưng lại chuyển tải được nỗi cô đơn, buồn tủi của người thiếu nữ. Nó gợi lên hình ảnh và cảm xúc. Dáng người lững thững từ bên này sang bên kia gợi lên hình ảnh người chinh phụ trằn trọc với nỗi nhớ trong đêm thanh vắng. Đếm từng giờ chậm rãi trôi qua, nhìn xung quanh chỉ là những hàng cây thấp thoáng, cô lạc vào cô đơn. Sự chờ đợi luôn luôn là dài. Thuý Kiều có tâm trạng chờ Kim Trọng:
Nỗi buồn càng đong đưa, càng đong đầy,
Bố dọn dẹp cho một ngày dài!
Như tâm trạng của người chinh phụ đợi chồng:
Thời gian dài như năm tháng,
Mất tích như biển xa.
Thời gian dài, không gian như vô tận, người chinh phục nhỏ bé, cô đơn trước không gian và thời gian. Biết rằng sự chờ đợi là vô vọng, cô ấy cố gắng giải thoát mình khỏi sự cô đơn. Cố gắng tô son và đánh đàn nhưng càng vùng vẫy, tôi càng tuyệt vọng. Nơi nào bạn chạm vào, bạn chạm vào nỗi đau, và bạn thấy cô đơn. Khi nhìn vào gương, nước mắt cô đã rưng rưng, bởi cô phải đối diện với gương mặt đã không còn tuổi xuân và vẻ đẹp thanh xuân đang tàn phai. Feng Ge gợi nhớ đến cảnh vợ chồng xa cách.
Nỗi đau đớn, xót xa của người chinh phụ thể hiện niềm khao khát hạnh phúc hôn nhân đích thực. Bằng sự đồng cảm sâu sắc, tác giả và dịch giả đã thể hiện rất khéo léo và thành công trạng thái tâm lý phức tạp của người thiếu nữ, từ đó bày tỏ thái độ của họ đối với chiến tranh và loạn lạc dưới chế độ phong kiến thế kỉ XVIII. Tuy tác phẩm không nêu rõ tính chất của cuộc chiến mà những người chinh phạt tham gia nhưng xét theo điều kiện lịch sử khi tác phẩm ra đời, có thể thấy đây không phải là một cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, mà là một cuộc chiến tranh. Các tập đoàn phong kiến, các cuộc chiến tranh phi nghĩa.
Di Qing tâm niệm rằng người dịch đã chọn thể thơ Qiliuwan, một thể thơ dân tộc vô cùng có khả năng diễn tả cảm xúc của nhân vật, đặc biệt là nỗi buồn và sự u uất. Người dịch chuyển ngữ nội dung của nguyên tác một cách trang nhã, thể hiện chân thực nỗi buồn của một người phụ nữ phương Đông, một cách mãnh liệt, đau đớn nhưng thận trọng. Cuộc chinh phạt đẫm lệ đánh dấu một bước tiến lớn của chữ quốc ngữ. Thông qua tác phẩm này, người Việt Nam thể hiện khả năng diễn đạt suy nghĩ và tình cảm một cách sâu sắc và tinh tế. Với tấm lòng yêu thương và đồng cảm sâu sắc với khát vọng chính đáng của người thiếu nữ này, tác giả và dịch giả đã cất lên tiếng kêu nhân đạo trước chiến tranh phi nghĩa. Tuy không trực tiếp thể hiện thái độ phản chiến nhưng nó rất mạnh mẽ. Chiến tranh đã cướp đi hạnh phúc và tuổi thanh xuân, thậm chí là tính mạng của họ. Vì chiến tranh, nhiều người vợ phải bỏ chồng, nhốt mình trong nỗi cô đơn, đau buồn như những kẻ chinh phu khác. Có người đón chồng về khi tóc đã điểm sương, nhưng đó vẫn là sự may mắn. Một số người đau lòng khi biết chồng mình đã chờ đợi nhiều ngày mà vẫn chưa trở về.
“Bởi vì ai đã gây ra rắc rối này” là câu cảm thán nặng nề nhất trong câu tụng của Qingfu, câu cảm thán này không mạnh mẽ, mà là sự oán hận và phẫn uất. Đây là một trong những giá trị của Chinh phụ ngâm. Nhưng điều quan trọng hơn cả là tác phẩm này đã tiếp nối tốt tinh thần nhân đạo của nền văn học dân tộc, đồng thời tiếp tay cho những đòi hỏi chính đáng của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Đề tài về thân phận phụ nữ đã góp thêm một tiếng nói mới đầy sức mạnh của con người.
Xem thêm: Đoạn trích Phân tích nỗi cô đơn của Chinh phụ ngâm