Phân tích lòng hiếu thảo của nhà từ thiện Canyu TOP 11

Bài văn nghĩa sĩ Cần Giuộc phân tích gồm dàn ý chi tiết 11 bài văn mẫu được đúc kết từ những bài làm văn hay nhất của các bạn học sinh trên cả nước. Hi vọng tài liệu này sẽ giúp các bạn học sinh lớp 11 có thêm nhiều ý tưởng hay và mới cho bài văn của mình.

Nội dung chính

Bài Phân Tích Những Người Nghĩa Sĩ Cần Giuộc Hay Nhất

Bài văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc tóm tắt

1. Giới thiệu

——Một chút của Ruan Dingzhao: Tác giả mù rất xinh đẹp, là ngôi sao sáng trên bầu trời văn học dân tộc, “càng nhìn càng sáng” (Fan Wentong)

– Vài nét về nghĩa sĩ Cần Giuộc: Bài thơ nghĩa sĩ là tiếng khóc bi tráng trước một giai đoạn đau thương nhưng vĩ đại trong lịch sử dân tộc.

2. Cơ thể

1. Giới thiệu bài: Khái quát về thời đại và lời khẳng định bất hủ của người nông dân anh hùng

+ “Oi!”: Thán từ thể hiện sự chân thành, nghiêm túc và đau buồn

+ “Gun of the Land Enemy”: tàn phá, quân xâm lược bằng vũ khí tối tân

+ “Tấm lòng son sắt của con người”: Đánh giặc bằng tấm lòng yêu quê hương đất nước.

– NT tương phản nhằm thể hiện cảnh thời thế bấp bênh, những biến cố chính trị lớn.

⇒ Chắc chắn dù thất bại và các liệt sĩ đã chết nhưng tiếng thơm vẫn còn.

2. Phần hiện thực: hình tượng người nông dân anh hùng Chanruo

Một loại. nguồn gốc

– Từ những người nông dân nghèo, những xóm nhỏ, xóm giềng (những người rời quê lên đất mới kiếm sống)

+ “làm ăn”: trạng thái sống cô đơn, thiếu người nương tựa.

——So sánh với NT “không quen>

⇒ Tác giả nhấn mạnh cái quen và chưa quen của người nông dân, để so sánh hình tượng của nhân vật chính.

b. lòng yêu nước rực lửa

– Khi giặc Pháp xâm lược, người nông dân cảm thấy: Lúc đầu sợ hãi, mong ngóng tin tức, căm thù ⇒ căm thù, đứng lên chống lại chúng.

⇒ Người nông dân thay đổi tâm trạng, thái độ thay đổi bất thường

– Thái độ đối với kẻ thù: căm thù, căm thù đến tột cùng.

– Ý thức dân tộc: không dung thứ cho kẻ thù bịp bợm, lừa lọc ⇒ họ tự giác chiến đấu: “chờ ai bắt…”.

C. Tinh thần chiến đấu và sự hy sinh của người nông dân

– Tinh thần chiến đấu cao: Vốn dĩ không phải là bộ đội, chỉ là một người dân làng “yêu nghề làm nghề tuyển binh”.

– Quân trang rất đơn giản: áo vải, áo măng tô, dao phay, cung cỏ đã được sử sách ghi lại.

– Lập được chiến công: “xây xong nhà truyền giáo”, “chặt đầu hai quan”

– “đập rào”, “đập cửa”, “phiêu”, “tạt ngang”, “chém ngược”…: Động từ mạnh chỉ hành động dồn dập với mật độ cao, nhịp điệu sôi động.

⇒ Là tượng đài nghệ thuật đồ sộ về những anh hùng nông dân đánh giặc cứu nước.

3. Phần than thở: niềm tiếc thương, cảm phục của tác giả đối với sự hy sinh của các liệt sĩ.

– Sự hy sinh của người nông dân được kể lại một cách sinh động với sự xót xa chân thành

– Hình ảnh gia đình: tang tóc, hiu quạnh, chia ly, gợi không khí đau thương, tang tóc thời hậu chiến.

——Sự hy sinh của người nông dân anh hùng đã để lại bao đau thương, tiếc thương cho tác giả, gia đình, nhân dân miền Nam và toàn thể nhân dân ta.

⇒ hét lên, lịch sử reo hò

⇒ Bút pháp trữ tình và nhịp điệu trầm lắng gợi không khí lạnh lẽo, hiu quạnh sau cái chết của nghĩa quân.

4. Phần kết: Ca ngợi linh hồn bất tử của ân nhân.

——Tác giả khẳng định: “Khói tan, sức sống ngàn năm: danh tiếng ngàn năm muôn đời.

——Hắn cũng nêu cao tinh thần chiến đấu và hy sinh quên mình vì sự nghiệp vĩ đại của quân khởi nghĩa

——Đây là cái tang chung của mọi người, cái tang chung của cả thời đại, một khúc ca buồn về những anh hùng liệt sĩ.

⇒ khẳng định sự bất tử của các liệt sĩ.

3. Phần cuối

– Nêu những nét tiêu biểu về nghệ thuật làm nên thành công cho nội dung tác phẩm.

– Bày tỏ suy nghĩ của bạn

Phân tích Văn học Hi sinh Canruo —— Văn mẫu 1

Người nghĩa sĩ Cần Giuộc được ví như một “tượng đài nghệ thuật ngưng đọng”, nhưng kỳ lạ thay, thần thời gian cũng không thể phá được. Nguyễn Đình Chiểu – Con người ấy đã xa chúng ta từ lâu, nhưng những vần thơ của ông còn trẻ mãi với thời đỏ.

gosh

Tiếng súng giặc rền vang, lòng người phơi phới.

Bài thơ tứ tuyệt mở đầu được chia thành hai nửa gọn gàng nhưng rất khái quát. Với nhiều ngôn từ như vậy, tác giả đã phác họa nên một bức tranh toàn cảnh và toàn diện về những gì tác giả muốn gửi gắm: đỉnh cao của tội ác và công lý, đau thương và cái đẹp, và một bên là họng súng đi ngược lại lòng người. Mọi người.

Mười năm miệt mài với nghề không biết có còn nhưng nổi tiếng.

Một trận đánh Tây vừa thua, nhưng tiếng vang như mìn.

Bây giờ mới rõ tác giả muốn nói gì. Bài thơ này phản ánh sự đối lập giữa “mười năm làm ruộng vất vả” và “công lý chống Tây” – sức mạnh, bạo lực và sự vươn lên nhanh chóng của người nông dân. Mười năm trước, ít người biết đến, nhưng trong một trận chiến vừa sức với Tây, các liệt sĩ đã tạo nên “tiếng vang”. Bốn bài thơ này dường như báo trước sự anh hùng, sức mạnh và không thể tránh khỏi bi kịch của họ.

Nhớ về tinh thần ôm ấp kinh doanh xưa

Chỉ sự nghèo khó.

Hình ảnh những con người bình thường hiện ra, những người sẽ làm nên lịch sử, họ là những con người vô danh chỉ sống sau lũy tre làng, sau rặng dừa, sau rặng chuối, những con người đã hy sinh vì nghĩa lớn. . Họ đã hy sinh khi “Tổ quốc cần đến”. Hình ảnh của họ trở nên đẹp đẽ từ đó. Họ chỉ là những người đã quen với công việc đồng áng.

Tôi không biết đi học ở đâu, nhưng tất cả những gì tôi biết là:

Trang trại trâu trong làng.

Làm ruộng, xới đất và cấy bằng tay là những công việc phổ biến.

Thực hành khiên, giáo, mác, và cờ vua hơn bao giờ hết.

Cuộc sống của họ bình yên, hàng ngày chỉ biết lăn lộn với miếng cơm manh áo nhưng cuộc sống nghèo khó vẫn bám trụ. Họ không thể tưởng tượng được việc đánh nhau. Lần đầu nghe tin giặc Pháp giẫm đạp lên mình, họ cũng có chung tâm lý “dân đen”, “con đỏ” ​​là lo sợ, mong chờ và thất vọng.

Hơn mười tháng, tiếng gió tiếng hạc dường mưa, hương cừu xào ba năm. Đang đợi “tin nhắn” thì chim én bay mất. Họ đi từ hy vọng tò mò đến tuyệt vọng, từ sợ hãi và hoảng sợ đến hận thù – hận thù trong mơ hồ.

Hôm đó mình thấy sủi bọt trên bào thai trắng muốn ăn gan.

Khi tôi nhìn thấy ống khói biến thành màu đen, tôi muốn lao ra ngoài và cắn vào cổ mình.

Trong khi lòng căm thù chỉ được nuôi dưỡng trong một khái niệm mơ hồ, thì sự tức giận đã gia tăng. Họ muốn lao ra bằng tay không “để ăn thịt những người đã gây nhiều tội ác”. Đọc đến đây, tôi chợt nhớ đến câu nói hấp dẫn của Chen Guoduan: “Tôi thường đến bữa và quên ăn. Nửa đêm tôi vỗ gối, bụng đau như điên, mắt rưng rưng”. Gao). Cái khổ, cái đau xé lòng thôi thúc con người ta hành động, thôi thúc con người ta phải “nuốt gan uống máu quân thù” để được yên thân. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc cũng vậy. Họ bắt đầu nghĩ cho đất nước, cho đất nước và họ sẽ cảm thấy nhục nhã nếu những “con chó” đó được phép chà đạp lên những giá trị tinh thần của dân tộc.

Trận đấu lớn, ai có thể chặt được rắn và đuổi được con nai

Mặt trời và mặt trăng chói lọi, không chỗ dung lũ cừu chó.

Nhận thấy điều này, họ quyết định khởi nghĩa. Họ nuôi dưỡng tinh thần thiện nguyện.

Chờ người hỏi bắt ai, lần này xin cố gắng ngăn lại.

Quá lười biếng thậm chí còn chạy xung quanh, chuyến đi này trở thành con hổ.

Họ hình dung ra một cuộc chiến tranh chính nghĩa. Khi tiếng gọi của quê hương tha thiết, họ không cần giấu giếm. Họ đã biết chiến đấu và hy sinh để giữ bờ cây chuối, bờ đất mà họ biết và những điều thiêng liêng mà họ cho rằng chẳng liên quan gì đến “tổ tiên” của họ. Hình ảnh của họ thật đẹp và tấm lòng của họ thật cao cả. Hình ảnh đó khác xa với hình ảnh người lính giáp mặt đánh trống buộc “nước mắt như mưa” trước đây.

Khi ra trận, Martyr Ruan Dingzhao vẫn mang màu sắc tươi sáng và giản dị. Họ là những “dân làng kỳ lân” với vũ khí đơn giản, chỉ là chiếc chõng tre, cây rơm, cây cung nhưng họ đã dệt nên cả một chương lịch sử vẻ vang. Họ thật đẹp, thật anh hùng, thật đầy dũng khí. Có rất nhiều điều lớn lao và cao quý trong cái “áo chùng chình” nghèo khổ và nhỏ bé.

Hoắc Hành bị đánh rơm rạ, cây cung cũng đốt nhà tôn khác, kiếm xuyên qua dao phay cũng chém đứt đầu hai nhà.

Họ là những người giản dị và anh hùng. Khi cày bằng cuốc, họ là những người hiền như đất, như khoai, nhưng khi giáp mặt với kẻ thù, họ vẫn không hề khuất phục trước sự hung hãn. Họ đoàn kết với nhân dân Việt Nam. Tinh thần đoàn kết mà trước đây Nguyễn Trãi đã đề cao ở Gao Ping Wu Zhong.

Nhân dân bốn phương dựng cờ phấp phới trên cột tre.

Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa những nhân vật cụ thể trong cuộc chiến đấu chống Tây của họ một cách hào hứng và phấn khởi.

Tiếng chiêng và tiếng trống của bạn thúc giục mọi người bước lên hàng rào để xem kẻ thù biến mất

Hãy chờ thằng tây bắn đạn nhỏ đạn to đập cửa xông vào như không.

Cắt bỏ quá khứ, cắt lùi, khiến ác quỷ co rúm lại

Hãy để những chiếc thuyền thiếc và bằng đồng nổ tung mùa hè sau những tiếng đại bàng.

Ngòi bút của Ruan Dingzhao như một thanh gươm sắc bén trước sức mạnh rộng lớn, vẫy vùng vui sướng trên chiến trường, ào ạt như vũ bão của những kẻ tử vì đạo. Khoảng dừng ngắn ngủi tạo nên một tinh thần chiến đấu dữ dội, mang hơi thở của cuộc chiến đấu tay đôi. Trong khung cảnh ấy, tung hoành giữa chiến trường vẫn có những người nông dân anh dũng, kiên cường. Giọng thơ khác hẳn giọng thơ của Ruan Cui từ hàng trăm năm trước.

Vào ngày thứ mười tám của trận Zhilang, Lưu Đường bị đánh bại

Vào ngày thứ 20 của trận Mã Diêm, Lưu Đường bị mất đầu

Ngày hai mươi lăm, Bá tước Lương Minh bị đánh bại và chết

Ngày 28, Bộ trưởng Lý Thanh và người kế nhiệm treo cổ tự vẫn.

Nguyễn Đình Chiểu cũng có thể muốn viết về muôn vàn thất bại của kẻ thù. Nhưng ở đây chúng ta thấy rằng trận chiến dù có ác liệt đến đâu thì đó cũng là bản lĩnh của những người quen cuốc đất làm ruộng. Họ thất bại vì:

Mười bộ võng chờ tập rèn

Chín mươi găng tay không thể chờ đợi để được hiển thị.

Đây là những tình tiết anh hùng, nhưng rất đáng thương. Ai mà không thương cảm cho một con người cụ thể và cho cả đất nước khi chứng kiến ​​cách họ đánh giặc. Kết quả là giai điệu thơ bồng bềnh như mặt hồ bỗng êm đềm, chiến tranh bỗng trở nên hoang vắng lạnh lẽo, mang màu sắc bi thương, đau lòng.

Những người quan tâm đến ý nghĩa của việc sử dụng lâu dài băn khoăn rằng liệu xác thịt có háo hức bỏ …

Vài dặm đến sông Cần Giuộc với cây cối và đồng cỏ.

Nhìn chợ Trường Bình phù hợp với mọi lứa tuổi, với hai dãy hàng nhỏ.

Những vần thơ như trôi lặng lẽ trong trí nhớ của tác giả. Nhà thơ gửi niềm thương tiếc vô hạn cho những người đã khuất. Cái chết của họ khiến cả thế giới, cây cỏ thương tiếc và nước mắt chảy dài trên khuôn mặt, cái chết mang đầy nỗi buồn cho vạn vật. Trước sự hy sinh, mất mát của các liệt sĩ, cả một vùng trời mịt mù mịt mù.

Vào năm đại bàng, nó đóng băng với Qingta, và Zixin gửi lại bóng của mặt trăng tròn.

Đông Lăng Sa trả thù được một thời gian, Âm hối hận cũng trôi theo dòng chảy.

Đau đớn, mẹ già khóc rưng rức, ánh đèn trong lều le lói giữa đêm khuya.

Người vợ bất lực chạy đi tìm chồng thay cho người vợ yếu đuối, bóng người lững lờ trước ngõ.

Những hình ảnh tội nghiệp đó cắn xé trái tim chúng tôi và tâm hồn chúng tôi nhức nhối. Nhân danh lịch sử, Nguyễn Đình Châu đã hô vang những anh hùng hy sinh vì Tổ quốc. Từ những giọng điệu u uất vang lên trong các đoạn văn, chúng ta không thể phân biệt được đâu là giọng của tác giả, của những con người, của những người thân trong gia đình, như thể chúng ta đã nghe thấy tiếng khóc chung của dân tộc. Ngòi bút của Ruan Dingzhao cô đọng tất cả nỗi đau và cất lên tiếng kêu cao cả.

Sau một hồi đau đớn, thổn thức, những câu nói chìm đắm trong sầu muộn chợt bừng tỉnh, làm nổi bật một cách nhìn tuyệt vời về cuộc sống, về nguyên tắc sống và cái chết.

Sao sống theo quân bên tả, nhang khói độc bàn, lòng càng thêm buồn.

Cách sống trong quân tử, chia rượu, ăn bánh hấp, và nghe cọp.

Thà thoái hóa để bắt giặc về với vinh quang của tổ tiên.

Còn hơn mang chữ Tây mà sống với rợ thì khổ.

Nguyễn Đình Chiểu đưa ra một quan điểm sống rất nhân văn: thà chết chứ không chịu làm nô lệ, làm những việc ô nhục, ô nhục. Câu thơ “sinh ra để đánh giặc, thác cũng đánh giặc” được nhắc đến như một chân lý vẻ vang. Sự thật này làm vơi đi phần nào nỗi buồn và cảm giác mất mát của những liệt sĩ đã hiến thân cho Tổ quốc, cho quê hương.

Thác trả nước non rồi nợ, so với sáu tỉnh thì hết lời ca tụng.

Giống như một thác nước được lưu giữ trong nhà ở công cộng và đền thờ, nó có một danh tiếng lâu đời.

Họ là những tấm gương sáng cho thế hệ mai sau. Trong niềm thương tiếc thành kính của tác giả, linh hồn của các liệt sĩ vẫn còn ám ảnh về cuộc sống và theo đuổi sự nghiệp giết giặc cứu nước đến cùng, cùng với Ruan Tingzhao còn sống, thật đáng khâm phục.

Ôi, chết không thể chết

những người yêu nước không thể chết

Người không biết xấu hổ.

(đến Hu)

Họ đã hoàn thành ý nghĩa cao cả của mình một cách vui vẻ như những người nông dân “thu hoạch ruộng của họ.” Cái chết của họ như một giấc ngủ ngắn êm đềm, êm đềm. Nhưng sự bình yên và thanh thản này lại gợi lên nỗi đau trong lòng của bao chúng sinh.

Ruan Dingzhao đã tạo dựng hình tượng một liệt sĩ anh hùng và bi tráng với lối hành văn mộc mạc, giản dị, sử dụng nhiều thành ngữ và từ vựng trong cuộc sống hàng ngày. Qua “tượng đài nghệ thuật” ấy, tác giả gửi gắm một tư tưởng nhân sinh tốt đẹp. Nhà từ thiện của Canyu là tiếng nói cao quý từ trái tim yêu nhân dân, yêu đất nước.

Sự hy sinh của các nghĩa sĩ Cần Giuộc đã qua, nhưng trang sử nước nhà còn bỏ ngỏ. Và chúng ta, những người con của đất nước này, phải nhớ gìn giữ những giá trị ngàn đời có công dựng nước và tấm thảm để có được ngày hôm nay. Điều mà Nguyễn Khoa Điềm xúc động trong những bài thơ của mình là điều rất cảm kích.

Có bao nhiêu cô gái và cậu bé?

Trong một lớp 4.000 người bằng tuổi tôi

Họ sống và chết

đơn giản và bình tĩnh

Nhưng họ đã tạo ra đất nước này.

(dân tộc)

Phân tích lòng hiếu thảo của nhà từ thiện Canruo – Chế độ 2

Ngày nay, đọc những vần thơ của Duccio không những thấy được tâm huyết và tài năng của nhà thơ mà còn thấy được cả thời đại lịch sử, của cả dân tộc ta trong một thời kỳ đau thương và vĩ đại. Những bài thơ, văn của Đồ Chiểu sẽ mãi là món ăn tinh thần của người dân Việt Nam. Chính vì vậy, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhận xét: “Ngòi bút là tâm hồn trung kiên, bất khuất của Nguyễn Đình Châu, khắc họa chân thực và sinh động tình cảm của dân tộc đối với nghĩa quân… anh em… anh hùng cứu nước”.

Bài “Tấm lòng hiếu thảo của nhà nhân ái Canyu” chứng tỏ bạn nêu cao lòng yêu nước, quan tâm đến vận mệnh đất nước, đồng thời cũng có những lời xót xa chua xót.

Một khi bài báo ra đời, nó ngay lập tức gây được phản ứng mạnh mẽ, đặc biệt là trong quần chúng nhân dân. Nó có giá trị mở đầu cho nền văn học yêu nước chống Pháp nửa sau thế kỉ XIX. Bài viết dựa trên người thật, việc thật nên càng ý nghĩa …

“Văn học nhân ái của anh Văn” đã làm rung động lòng người bằng giọng văn “nhân ái”, vẻ đẹp của văn chương giản dị, ngôn từ thao thao bất tuyệt, và cả sự đau thương phục vụ nhân dân, vì Tổ quốc. Bài hát bắt đầu bằng một câu cảm thán chua xót:

“Trời ạ! Tiếng súng dưới đất ầm ầm, động lòng người.

Chỉ trong một vài từ, bạn có thể thấy toàn bộ xã hội và sự hỗn loạn lúc bấy giờ. Một là sự xâm lược ác liệt và man rợ của kẻ thù, hai là nghĩa vụ và ý chí của những người nông dân phải chống lại bọn quân man rợ. Người dân đau lòng, bị áp bức, nhưng mấy ai hiểu được “lòng dân”. Họ chỉ tin vào “Trời”: “Trời sinh lòng người”, vì chỉ có Trời mới thấu được lòng người có học, còn vua hèn thì biết hết, nhưng chỉ biết xưng danh.

Cuộc sống của những người nông dân lặng lẽ trôi qua. Sau nhiều tháng ngập lụt, họ không ngờ đến thảm họa.

“Mười năm miệt mài làm ruộng chưa chắc đã nổi như cồn.

Một trận chiến chính nghĩa với phương Tây, dù nó mất đi tiếng vang như một con la

Không biết ngựa đi học ở đâu, nhưng tất cả những gì tôi biết là trại trâu theo làng … “

Cuộc sống ở làng đơn sơ, nghèo khó. Họ chỉ biết làm ăn, miếng cơm manh áo. Đây là tất cả những gì họ biết, thanh kiếm và cây cung họ chưa từng biết. Tuy nhiên, họ vẫn tràn đầy lòng yêu nước và căm thù giặc đến mức “muốn ăn gan, cắn cổ”. Điều này thể hiện rõ nhân cách của người nông dân.

Những người chính trực này không phải là quân nhân, mà là những người nông dân nghèo khổ. Việc đánh giặc không phải của họ, mà vì lòng yêu nước, căm thù giặc, đợi mãi không thấy quốc quân. Họ muốn làm việc lớn, họ muốn “chặt rắn”, “đuổi nai” ”… Thực tế cho chúng ta thấy Thái độ khiêm tốn của nhà Nguyễn đề cao vai trò của người nông dân trước“ trường đoạn lịch sử ”.

Họ – những “người chính trực” không thể chịu nổi kẻ thù giẫm đạp lên mồ mả của tổ tiên mình… Họ quyết đứng lên đánh dẹp những kẻ tàn ác:

Mười tám bảng võ công đang chờ được luyện tập

Chín vạn quân thư không được nhìn thấy

Ngoại trừ một mảnh vải,

Nào, đợi bánh mì,

Anh ấy cầm một ngọn đuốc trong tay,

Đắt tiền mua dao, mũ gõ.

Bây giờ họ không cần gì cả, chỉ chờ luyện rèn, có thể chiến đấu với những gì mình có. Bắt đầu với các công cụ cơ bản, nó cũng trở nên quan trọng, hiếm và hiệu quả đối với họ:

Súng trường đánh bằng rơm, cung tên,

Các ngôi nhà tôn giáo khác cũng bị thiêu rụi.

Kiếm mòn với dao phay

Anh ta cũng chặt đầu của hai người khác.

Nguyễn Đình Chiểu nói câu này nhằm mục đích gì? Chẳng phải bản thân anh cũng nhận thức rõ những kẻ cần quyền có đầy đủ công cụ, nhưng không lay chuyển được mà là những con người … Thái độ của nhà thơ là sự tức giận, phẫn uất vì thói vô trách nhiệm, thương cho những con người nghèo khổ nhưng chân thành. Trung thành, yêu nước. Ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu có vẽ nên hình ảnh sinh động của người nghĩa sĩ nông dân? Vâng. Và chỉ trong một vài từ, nó cũng đã bộc lộ lòng trung thành của nhà thơ Duccio.

Và cứ thế, nghĩa quân nông dân xông pha trận mạc dữ dội như vũ bão:

“Cắt quá khứ, đảo ngược quá khứ

Ác mã, Tâm kinh của Mạn Ni “…

Họ đã chiến đấu dũng cảm bằng sức mạnh, ý chí và lòng căm thù. Họ đang mạo hiểm cuộc sống của họ? Đừng! Bởi vì họ yêu đất nước của họ. Đọc các bài viết trong đoạn này:

“Các quan đánh trống thúc giục, làm quan.

Lướt trên hàng rào, săn sóc kẻ thù,

Thôi đi, sợ tây bắn đạn nhỏ đạn to.

Hãy chấp nhận rủi ro như thể bạn không có nó “

tất cả những điều này là:

“Cái gì bị chặt, cái gì bị chặt lại…”

Ngỡ rằng ngòi bút của tác giả còn tung hoành cùng nghĩa quân trên chiến trường. Giọng nói hùng hồn, tươi vui cùng nhịp điệu nhanh nhẹn, sung sức thể hiện rõ bản lĩnh của người tiền đồn. Đây là tiếng hô, ôi; tiếng đạn nổ, kèm theo ngọn lửa thiêu rụi pháo đài của địch, thiêu rụi cả sông Tần Ngư … . Đây là một hình tượng đặc sắc trong văn học cổ điển Việt Nam. Hãy chứng kiến! Bên cạnh những hình ảnh này là góc nhìn của Nguyễn Jun thấp bé và thấp bé. Bây giờ họ không có gì cả. Sự thật: “Ngòi bút của Ruan Dingzhao chính là linh hồn của ông, miêu tả chân thực và sống động tình cảm của dân tộc đối với binh lính phiến quân. Ở đây, Ruan Dinhzhao thể hiện và đại diện cho tình cảm quốc gia, dân tộc, viết những lời ca ngợi người chiến sĩ. Nhưng trên ngược lại, nếu người xưa không “trung thành” thì khó đại diện cho ông, thơ ông thường là tâm hồn, là tâm tư, nên đối mặt với chính nghĩa, đối mặt với đau thương thì làm sao thi nhân được. không khóc:

“Đi dọc sông Cần Giuộc, với muôn dặm cỏ cây,

Nhìn chợ Trường Bình, già và trẻ, hai dãy hàng nhỏ

Vốn định dùng ý nghĩ đã lâu, nhưng không biết thân thể của mình đang muốn từ bỏ. “

Không khí hân hoan của trận chiến đang diễn ra, nhưng bỗng như thiếu một thứ gì đó và nó dừng lại. Nghĩa quân xông pha trận mạc không sợ chết, tưởng rằng tình yêu sẽ bền lâu … Nhưng làm sao tránh khỏi hy sinh …

Cái ân hận của tác giả càng thêm thương cho những người dân làng chài chỉ biết làm ăn mà giặc đến, dù chỉ có những dụng cụ đơn sơ cũng dám liều mình giết giặc. Giờ đây khi họ đã ngã xuống trên chiến trường, tác giả càng đau buồn hơn. Dường như cả cây cối, đất trời đều buồn bã, ảm đạm:

“Đi dọc sông Cần Giuộc muôn dặm cây cỏ.

Nhìn vào chợ Trường Bình, có hai hàng già và trẻ ”.

Dọc theo bờ sông Qinyu, cây cối thảm hại, ở chợ Trường Bình có hai dãy người già trẻ nhỏ. Trước hết ai cũng khóc thương cho những nghĩa quân đã hy sinh vì tổ quốc. Nước mắt không thể ngừng chảy, dù có đi đâu vẫn giữ nguyên hình bóng của mình:

“Chùa Đồng Khánh, Súp Đại bàng Năm Đông lạnh

Lòng tôi gửi lại bóng trăng rằm … “

Nhìn lại những cảnh đã qua, tác giả cảm thấy trong lòng hiện lên một tia tiếc nuối, tức giận. Phẫn nộ trước những con quỷ vô nhân tính, không kiềm chế được; thương cảm cho số phận nhỏ nhoi, nhỏ bé của nghĩa quân và những người đã đứng lên vì chính nghĩa. Họ đã mất tất cả: gia đình của họ, những người thân yêu của họ. Gia đình họ mất nơi trú ẩn.

Đau đớn quá, mẹ già khóc trẻ

Đèn khuya lấp lánh trong lều

Chán nản hơn vợ yếu chạy đến với chồng

Bóng chiều lững lờ trôi ngoài ngõ.

Đau xót biết bao khi người con, người chồng ra đi để lại những tiếng khóc thê lương, thương tâm. Trong khoảng không vô tận, người vợ nửa ngủ nửa mê chạy đi tìm chồng. Hình bóng mẹ già không còn nước mắt nhưng con vẫn khóc, khóc cho vơi đi nỗi chua xót trong lòng.

Cảm xúc chân thành của tác giả khiến bài viết có chất trữ tình đặc biệt, tác động mạnh đến tâm trí người đọc. Nguyễn Đình Chiểu đặc biệt trân trọng sự hy sinh oanh liệt của nghĩa quân. Vì vậy, ông khẳng định quan điểm sống của người công chính “thà chết trong vinh quang”:

Tốt hơn hết là nên lợi dụng để bắt địch.

Thật là vinh dự khi noi theo tổ tiên

Tốt hơn nữa, với các chữ cái đầu của phương Tây

Sống chung với dã man là rất khó.

Một cái chết như vậy thực sự là cái chết của một nghĩa quân, để trả nợ nước non và khôi phục danh thơm cho muôn đời. Qua những cái chết ấy, tác giả phê phán lối sống hèn hạ của “quân phản bội”:

“Ai làm quân xấu hổ, ai ăn tuyết rơi.”

Vì ai đã làm cho pháo đài sụp đổ và bão tố?

Tại sao phải sống theo đội quân ma quỷ

Quăng nén hương lên bàn độc, dù buồn đến mấy.

Sống trong đội quân ma quỷ, dâng rượu, ăn bánh, càng muốn nghe có ích lợi gì … “

“Vì ai”, “vì mục đích gì”, như nén giận, lên án tố cáo, hành hạ những kẻ bán nước – là nguyên nhân của mọi đau thương, tang tóc… và quan trọng hơn là lối sống nô lệ của tên cai trị Đỗ Nguyên Đính. Đồ Chiểu nhấn mạnh đến sự hy sinh oanh liệt của nghĩa quân. Đây là tâm niệm của ông Ruan Dinh Chao: ông luôn mong các liệt sĩ này luôn sống trong lòng dân tộc, đất nước. Nhà thơ Du Chao đã khẳng định lại triết lý sống cao đẹp của dân tộc Việt Nam bằng tấm gương hy sinh oanh liệt của mình. Chính vì vậy, đồng chí Fan Wendong đã đánh giá rất đúng về ông Du Zhao: “Cây bút… ngày xưa chỉ dùng để cày, cuốc, nay bỗng trở thành anh hùng cứu nước”…

Cuối bài có những câu ví von như lời tâm huyết:

“Sống cho kẻ thù, chết cho kẻ thù”

Linh hồn đi theo giúp cơ bụng và muốn trả thù lẫn nhau ..

Khi một người chết đi, trái tim vẫn còn, và di chúc vẫn còn. Khó ở chỗ, trong tâm trí của tác giả, tâm hồn người liệt sĩ vẫn bị ám ảnh về lẽ sống để theo đuổi sự nghiệp chống giặc, cứu nước đến cùng. Có lẽ Ruan Dingzhao nghĩ rằng “những thứ chính trực không thể bị phá hủy …”

Sự hy sinh đã qua, nhưng vẫn còn đó hương thơm mà chính dân tộc dâng lên hương hồn các liệt sĩ ấy.

Đồng chí Phạm Văn Đồng nhận xét: “Ngòi bút của tác giả Định Châu chính là tâm hồn của ông, thể hiện một cách sinh động và xúc động tình cảm của dân tộc đối với những người lính nghĩa quân. Những người nông dân vốn chỉ quen cuốc đất bỗng trở thành anh hùng cứu quốc … “Nhà từ thiện Chanjue đã chứng minh một cách hùng hồn điều này.

Đối với những người còn trung thành, những liệt sĩ của các dân tộc anh hùng, thánh địa sẽ mãi là hương thơm của dân tộc.

Bài văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – Văn mẫu 3

Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho yêu nước nồng nàn, có lòng căm thù giặc sâu sắc. Anh đã phải trải qua nhiều bi kịch, gian khổ và bất hạnh trong cuộc đời. Có lẽ vì vậy mà khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, hơn ai hết ông cảm nhận được nỗi đau mất nước. Năm 1859, quân Pháp xâm lược sông Binyi và chiếm được thành Jiading, ông phải về quê vợ là Qinjiu Qingba để tạm trú. Về phía Pháp, sau khi chiếm được thành Jiading, họ bắt đầu mở rộng tấn công sang các khu vực lân cận. Cần Giuộc nhanh chóng bị giặc Pháp chiếm đóng. Những người nông dân trong trang phục thường dân, chân lấm tay bùn đã đứng lên chiến đấu. Họ gia nhập đội quân nổi dậy, sẵn sàng chết vì nghĩa lớn. Trong số đó có nhiều liệt sĩ đã anh dũng hy sinh. Những tấm gương hy sinh này được đánh giá cao. Thống đốc Du Quang của Jiading giao cho Ruan Dingzhao đọc một bài thơ tại lễ tưởng niệm hơn 20 liệt sĩ đã hy sinh trong trận chiến đêm 16/12/1861. Chính bằng lòng ngưỡng mộ và niềm thương cảm vô bờ bến mà Nguyễn Đình Chiểu đã viết nên “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”. Những hy sinh không chỉ thể hiện lòng thương cảm vô hạn của tác giả và nhân dân đối với liệt sĩ Canruo mà còn khắc họa vẻ đẹp chân thực, bi tráng, anh hùng và tình cảm yêu nước chống Tây của người nông dân.

ồ ồ!

Súng bắn đất; người ta cho …

Khi quê hương khủng hoảng, tiếng súng vang dội khắp đất nước. Chính từ nỗi xót xa, đau thương ấy, những người nông dân bình thường đã thể hiện tình yêu đất nước và thể hiện vẻ đẹp chân thực của tâm hồn mình với thế giới.

Tác giả nhiều lần sử dụng phép tương phản, tương phản ở những câu sau càng thể hiện rõ nét và sâu sắc tấm lòng quê, tình quê, chân chất của những người nông dân chất phác.

Hãy nhớ các cựu chiến binh:

Cút kinh doanh; sợ nghèo,

Nếu bạn không rành về cung ngựa, bạn có thể học nhung ở đâu?

Chỉ biết trang trại chăn trâu và sống trong làng.

Cuốc, cày, bừa, cấy, làm bằng tay;

Khiên, giáo, mác, cờ vua, tôi chưa từng thấy …

Trước đây, họ vẫn sống, vẫn tồn tại, chỉ là “làm ăn”. Họ vẫn sống, vẫn ở đó, nhưng chỉ trong im lặng. Trong cuộc sống, họ có những lo toan đơn giản hàng ngày, chỉ quen làm công việc đồng áng: cày, xới, cấy, hái, làm bạn với trâu, đồng ruộng. Họ không quen với “cung ngựa” và “bánh nhung”, và không quen với “đánh dấu và chơi cờ”. Những con người anh hùng ở đây chỉ là những Bunun, không quen chiến đấu, không rèn luyện, chỉ vì yêu ghét cái ác mà đứng lên đánh giặc.

Khi “gió gào hơn mười tháng”, họ trông chờ vào lệnh của triều đình: “Xem tin tức như đợi mưa”.

Thì ra bi kịch thảm khốc là ở đây: triều đình bạc nhược, bất lực và không hiểu lòng yêu nước của nhân dân. Lòng căm thù giặc của nông dân không gì có thể kiểm soát được:

Mùi tinh dịch chiên ba tuổi ghét thói thường chẳng kém gì nông dân ghét cỏ.

… Tôi muốn ăn gan khi nhìn thấy bọt bao bọc bào thai màu trắng, tôi muốn cắn đứt cổ khi thấy một ngày nào đó ống khói biến thành màu đen.

Hình tượng những người nông dân và những nghĩa sĩ yêu nước hiện lên anh dũng, anh dũng. Tình yêu chân thành của họ đối với quê hương làm cho họ trở nên đẹp đẽ và tỏa sáng. Vẻ đẹp của những người nông dân, chiến sĩ yêu nước toát lên từ lòng căm thù giặc sục sôi. Chính lòng căm thù giặc đã biến thành một hành động bất khuất rất anh dũng.

Giờ đợi ai đòi, bắt ai, lần này bạn hãy thử tháo gỡ nhé:

Quá lười trốn, trốn, lần này, trong tay lão hổ.

Trong các tác phẩm chống chiến tranh phong kiến ​​trước đây, để bảo vệ lãnh thổ của nhà vua, những người nông dân phải bằng mọi cách để làm nhiệm vụ phòng thủ biên cương, ra đi với tâm trạng “lên thuyền”, nước mắt tuôn rơi. . “, ở đây, những người nông dân Triều Đình thì hoàn toàn khác. Họ đã tự nguyện đứng lên chiến đấu để bảo vệ đất nước và Tổ quốc. Đây là nét đẹp cốt yếu nhất trong hành động của người nông dân – nghĩa sĩ Cần Ruồi. Đến đây, không phải chỉ vẻ đẹp tâm hồn, Và vẻ đẹp hành động của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước đã được Quan Đình Châu khắc họa rõ nét Động lực tinh thần xuất phát từ ý thức nhận trách nhiệm lịch sử đã làm nên sức mạnh của họ. Họ đã hành động và đứng lên chống giặc ngoại xâm. ‘Không đợi đưa cho cha tôi xem, Chỉ xin “ngoại trừ thận, trong tay có một chiếc áo vải mang theo bao tải, một con dao, một đầu tre, trên tay chỉ có một con dao và một chiếc nón gõ.” Hình ảnh của người nông dân hiển hiện trong tác phẩm khiến ta vừa tự hào, vừa xen lẫn xót xa. Chính nghĩa là hiện thân của sức mạnh toàn dân tộc Đối mặt với kẻ thù hùng mạnh “đạn nhỏ, đạn to”, “thuyền thiếc, thuyền đồng”, chuyên nghiệp những kẻ đột nhập, vũ khí chúng đối phó chỉ là “một mảnh vải”, “chũm chọe”, chỉ có “dao phay” và chỉ có “súng bắn cỏ”. Hãy tưởng tượng, chống lại súng của thực dân giống như bị giẫm chết. sự thật phũ phàng bày ra trước mắt, thật là Quá đau xót Đây cũng là bi kịch của Liệt sỹ Tử Văn Như bi kịch của cuộc đời đất nước ta trong giai đoạn nghiệt ngã đó. Bi kịch này dẫn đến mất nước kéo dài hàng thế kỷ.

Nhưng cũng chính từ bi kịch này đã tạo đà cho ánh sáng ngời lên vẻ đẹp của hình tượng người nghĩa sĩ nông dân giàu lòng yêu nước. Với lòng kiên trì và lòng yêu nước nồng nàn, họ đã đạt được những nghĩa cử phi thường và hát vang khúc hùng ca của cuộc chiến tranh vệ quốc. Bất chấp hiểm nguy, bất chấp sự chênh lệch, đối đầu về thế trận, họ vẫn kiên cường chiến đấu, quyết thắng, lấy tinh thần xả thân bù đắp những thiếu sót, khoảng cách giữa mình và địch. Hoàn cảnh chiến đấu chênh lệch là vậy, nhưng vì các liệt sĩ đã chiến đấu với ý chí quyết tâm không sợ hy sinh nên sức chiến đấu rất lớn.

Chỉ sử dụng vũ khí cơ bản như:

Đốt mơ, đánh bằng rơm, và thiêu rụi một ngôi nhà tôn giáo khác,

Thanh kiếm mà máy đánh bạc đeo trên người cũng cắt đứt đầu của hai người kia.

Một nhát chém ngang, một nhát chém ngược, tất cả đều khiến ác nữ khiếp sợ. .

Chỉ với những vũ khí đơn giản, lòng yêu nước và tinh thần dân tộc đã làm nên điều kỳ diệu. Hình tượng người nghĩa sĩ nông dân hiện lên với vẻ đẹp rạng ngời của lòng yêu nước dường như làm lu mờ cả thời kỳ đen tối của lịch sử mất nước nửa sau thế kỷ XIX.

Cảm xúc chính của Fant là cảm xúc bi thương, lời nói rắn rỏi và ngữ điệu sôi sục. Nghệ thuật đối đầu đóng vai trò lớn nhất. Tất cả những điều này kết hợp thành một âm thanh chiến đấu hào hùng, thú vị tuyệt vời. Ngòi bút của tác giả hoàn toàn xứng đáng với những nghĩa cử cao đẹp của các anh hùng nông dân, những ý tưởng vô cùng lớn lao mà tác giả gửi gắm trong hành động xung phong giết giặc cứu nước của họ.

Bài văn tế như một tượng đài trong văn khắc khắc hình tượng người chiến sĩ nông dân anh dũng, bi tráng, tượng trưng cho tình cảm yêu nước và lòng căm thù giặc ngoại xâm của cha ông ta. Tượng đài này là dấu mốc tiêu biểu cho một bi kịch lớn của dân tộc – bi kịch nước mất nhà tan, đánh dấu một thời kỳ đen tối trong lịch sử dân tộc ta – một trăm năm bị thực dân Pháp đô hộ. Nhưng anh hùng thay, trong bi kịch lớn lao ấy, nhất là tinh thần bất khuất của nhân dân miền Nam Việt Nam và cả dân tộc Việt Nam vẫn ngời sáng vì lý tưởng cao cả của những liệt sĩ sẵn sàng hy sinh vì chính nghĩa. cho đất nước.

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc Phân tích – Văn mẫu 4

Ruan Dingzhao là một nhà thơ, nhà văn nổi tiếng ở miền nam thời Trung Cổ, và là một ngôi sao sáng của nền văn học dân tộc. Ông đã để lại cho đời một sự nghiệp sáng tác đồ sộ thể hiện lý tưởng nhân văn và lòng yêu nước sâu sắc. Trong hệ thống tác phẩm đó không thể không kể đến tản văn Cần Ruồi, đây là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông.

Bối cảnh sáng tác văn học của nhà từ thiện Chanruo là việc thực dân Pháp bắn phá và xâm lược nước ta, cuộc khởi nghĩa Chanruo đã nổ ra và giành được thắng lợi sơ bộ. Sau đó địch phản công dữ dội, 20 liệt sĩ tử trận. Khi đó, thống đốc tỉnh Jiading, Du Guang, đã yêu cầu Ruan Dingzhao viết một bài văn tế tại lễ tưởng niệm các liệt sĩ ở Cần Thơ.

Mở đầu tác phẩm, Ruan Dingzhao nói về lý do của sự sống và cái chết: thấu hiểu lòng người / 10 năm làm việc chăm chỉ có thể không phải lúc nào cũng thành danh; một trận chiến công bằng với phương Tây, mặc dù nó đã thua. Tiếng vang của nó như một con la “. Tác giả sử dụng nhiều sự kiện và bão tố. Khắc họa bối cảnh của thời đại đó: kẻ thù được trang bị vũ khí hiện đại đã tàn sát nhiều người dân miền Nam. Chính trong hoàn cảnh đó đã thử thách lòng dân đối với đất nước. kẻ thù bằng chính tay mình, bất chấp sống chết, sẵn sàng xả thân, hy sinh những gì quý giá nhất (tài sản, tính mạng) để đổi lấy danh tiếng muôn đời, vì thế đã làm sáng tỏ chân lý của thời đại: thà chết trong vinh dự hơn là sống trong xấu hổ.

Trong các tác phẩm tiếp theo, chân dung người anh hùng nông dân hiện lên mộc mạc, khắc khổ nhưng đồng thời cũng vô cùng dũng cảm, ngoan cường. Trước khi giặc ngoại xâm đến, họ chỉ là những người nông dân rất chất phác, sống bình dị “làm ăn”, với bao bộn bề, bộn bề của cuộc sống. Họ chỉ biết làng quê nghèo, nhưng họ không biết thế giới bên ngoài. Quanh năm và tháng Giêng, những người nông dân đó bận rộn với công việc đồng áng: “cuốc, cày, cào, cày, quen tay”, “luyện khiên, giáo, mác, cờ tướng”. . “Nhưng khi quân xâm lược đến biên giới, trước sự bình yên bẩm sinh, và họ sẵn sàng đứng lên, nhận thức và cảm xúc của họ thay đổi rõ rệt. Đầu tiên là sự thay đổi cảm xúc. Họ đã nghe” Heming Wind “nhiều hơn một cả chục lần “Tháng” – họ đã nghe tin giặc ngược gió, chẳng những nghe mà còn ngửi thấy mùi đấu tranh: “Mùi cừu non ba năm”, cuối cùng cũng thấy sự hung hãn, tàn ác của kẻ thù khi tận mắt chứng kiến: “Ngày ta thấy lốp trắng. Tôi muốn ăn gan, mỗi ngày nhìn ống khói biến thành màu đen, tôi muốn chui ra và cắn vào cổ. “Đến thời điểm này, ý thức của họ đã thay đổi đáng kể. Nếu những người nông dân đó vẫn tin vào triều đình và trông chờ vào quân đội để” chờ mưa “thì đến thời điểm này, họ đã hiểu rất rõ về nền độc lập của đất nước và danh dự. hiểu biết về kẻ thù; kẻ xâm lược không có lý do gì để tồn tại trước công lý, và họ nhận ra trách nhiệm của mình với đất nước: “Chờ ai hỏi bắt ai, lần này xin cố gắng hết sức. Thời kỳ lười biếng trốn chui trốn nhủi, chuyến này cọp beo. ”Sáng kiến ​​của họ thật uy nghiêm, táo bạo và đầy dũng khí.

Thời Tây chiến, bọn họ không được trang bị binh pháp, chưa được huấn luyện võ công một ngày, trang bị rất thô sơ, chỉ có những vật dụng sinh hoạt và lao động: “Ngoài thận còn có áo vải. ”“ Cầm trong tay chũm chọe ”,“ cung cỏ bắn một phát ”,… Ngược lại, địch được trang bị vũ khí tối tân và cũng được huấn luyện cực kỳ bài bản:“ súng nhỏ đạn lớn ”“ pháo hạm ”. Tương quan lực lượng của hai bên là rõ ràng, Nhưng những người lính nông dân vẫn “đạp rào mà lướt”, “tưởng địch không hay”, “đập cửa xông pha”, “phản kích”. và giết chết ”. Sợ hãi những hồn ma ”, … không sợ trước sức mạnh của kẻ thù. , ngoan cường, dũng cảm, tình cảm, bất khuất.

Những vũ khí hiện đại của kẻ thù đã hạ gục biết bao liệt sĩ và để cả dân tộc thương tiếc. Tiếng khóc của tác giả, của bà con, của nhân dân cả nước trước sự hy sinh anh dũng của những người anh dũng cũng là niềm tiếc thương cho thân phận những người trong gia đình sắp trở thành nô lệ và giặc giã. Đồng thời, tác giả cũng bày tỏ lòng ngưỡng mộ sâu sắc đối với những người nông dân Tần Ngư anh hùng: “Thà ngã xuống bắt giặc, vẻ vang theo tổ tiên, thay mang chữ Tày đầu tiên là thế”. đau đớn khi phải sống chung với những con người man rợ ”. Bài thơ này không chỉ thể hiện sự thương tiếc đối với những người đã khuất mà còn khẳng định những điều đó trường tồn với thời gian, và mong được thế hệ mai sau tiếp nối. Vì vậy bài thơ buồn, thảm hại nhưng không bi lụy, yếu đuối.

Câu thơ cuối cùng khẳng định sự bất tử của người nghĩa sĩ nghĩa sĩ Cần Giuộc trong niềm thương tiếc, cảm phục của những người còn lại. Đồng thời ca ngợi các liệt sĩ đã hy sinh chiến công vì nghĩa lớn. Đặc biệt là câu: “Nước mắt anh hùng không lau được, lời thánh hiền càng thơm. Hương thánh càng thơm, ‘một tấc đất một tấc đất’ ‘, không chỉ thể hiện lòng tiếc thương người đã khuất, nhưng cũng ngang bằng với sự hiểu biết ngầm của triều đình.

Ngôn ngữ bình dị, giản dị, gần gũi với ngôn ngữ hàng ngày, đặc biệt là những ngôn ngữ đậm chất miền Nam. Tạo dựng hình tượng nghệ thuật – người anh hùng nông dân chân thực, chi tiết và sinh động, lần đầu tiên người nông dân xuất hiện đẹp đẽ và trang trọng đến vậy. Kết hợp hài hòa các chi tiết để thể hiện tâm tư, tình cảm của tác giả, tăng chất trữ tình cho bài, đồng thời dễ đi vào lòng người đọc hơn.

Người nghĩa sĩ Cần Giuộc đã khắc họa thành công bức tượng đài bi tráng và bất tử về người nghĩa sĩ nông dân bằng ngôn ngữ giản dị, giàu cảm xúc. Đồng thời, Nguyễn Đình Chiu bày tỏ sự cảm phục và tiếc thương trước những công lao, sự hy sinh bất khuất của họ qua các tác phẩm của ông.

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – Văn mẫu 5

Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhận xét về sự kiện này: “Sao trên trời sáng lạ thường… Mắt ta phải nhìn bằng tâm, càng nhìn càng sáng”. cuộc sống và thơ ca. Nhà thơ Ruan Dingzhao bị mù, nhưng tâm hồn ông luôn sáng. Nhắc đến ông, người ta không quên nhắc đến “Nhà từ thiện của Canruo”, tác phẩm tiêu biểu và thành công nhất của thể loại văn học này, đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Tác phẩm thể hiện lòng biết ơn, sự cảm thông và ngưỡng mộ của tác giả đối với những người nông dân thị trấn Canyu anh dũng, anh dũng, những người đã cống hiến trọn đời mình cho đất nước. Để phân tích văn bản một cách toàn diện và độc đáo nhất, chúng tôi đã lựa chọn cách nhìn và góc nhìn về chủ nghĩa yêu nước của người nông dân.

Những người nông dân vốn là những người nông dân chất phác nhưng nay vì lòng yêu nước, căm thù giặc đã trở thành những chiến binh anh dũng và hy sinh trong trận Rằm tháng 11 năm 1861. _Thời kỳ đầu chống Pháp.

tại sao? Thông qua hai bài thơ tứ tuyệt “Tiếng súng gầm lên; Lòng trời thương người” tóm tắt lại hoàn cảnh quốc gia và hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ. Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta, xâm lược và thực hiện chính sách áp bức, bóc lột hà khắc, khiến nhân dân ta vô cùng đau khổ. Câu nói trên cho ta thấy sự man rợ của bọn thực dân. Chúng có vũ khí tối tân, sức công phá cực mạnh, tiếng súng nổ vang trời. Điều này khiến chúng ta nhớ đến tội ác của giặc Pháp đã được nhà thơ lên ​​án trong “Giặc chạy”:

“Sau khi tan chợ, tôi nghe thấy tiếng súng của phương Tây.

bàn cờ không có tay

Rời khỏi nhà, lũ trẻ bỏ chạy

tổ sóc bay lạc

Bến Nghé trước cửa tan bọt

Tống Naiva vẽ mây “

Tiếng súng vô tình của kẻ thù không bỏ sót một ai, trừ một cảnh quay. Sau “Western Guns”, mọi thứ trở nên hoang tàn, tồi tàn và hỗn loạn. Kẻ thù hiện đại hơn ta rất nhiều về trang bị, vật chất, binh lính nhưng ta chỉ có một lòng là truyền thống yêu nước của nông dân, của dân tộc Việt Nam. Nghệ thuật nghịch thiên rất thành công, đúng đắn, chuẩn mực: mười năm <> một cuộc chiến, quyền lực (vật chất) <> nghĩa khí (tinh thần) tuy có thua nhưng chưa chắc đã nổi như phao <> nổi tiếng, chính là. to như tiếng la, khẳng định quyết tâm giết giặc, là cơ sở cho sự xuất hiện của nông dân. Tiếng kêu “ôi chao” quen thuộc bắt đầu buổi học. Những tiếng khóc lớn bày tỏ sự tiếc thương và chia buồn đối với các liệt sĩ đã hy sinh.

Nhà thơ đã gợi lại và miêu tả những người nông dân anh hùng rực rỡ, những người nông dân thôn quê chất phác, tinh thần yêu nước quật khởi bằng câu “tình cũ không quên”. Trước hết, họ là những người dân làm ruộng, làm nông nghiệp, lao động lam lũ kiếm sống. “Làm ăn nhẹ nhàng, lo nghèo” như lời nhận xét của Hoài Thanh trong “Lời yêu thương của chim cút”. Nhà thơ bày tỏ sự thương cảm đối với người đàn ông hiền lành, có vẻ ngoài đáng thương này. Họ là những người thuần nông, thuần nông, ngoài công việc đồng áng, họ “chỉ biết có ruộng chăn trâu”, không gian giao tiếp trong “làng” hạn chế, còn những người nông dân “chăn trâu, cày, xới, cấy thì họ đã quen. ” Họ biết bao nhiêu về kiếm và giáo, “Tôi không quen cưỡi ngựa, và tôi không thể đi học”, và bao nhiêu họ biết về “luyện tập khiên, giáo, mác và cờ vua.” Còn biết bao nhiêu là ẩn số, nhưng khi bị quân xâm lược quấy nhiễu, không chống lại được triều đình đã anh dũng bỗng chốc trở thành những anh hùng liệt sĩ cứu nước.

Lúc đầu, họ cũng trông chờ vào cuộc phản công của tòa án. Nhưng trước tình thế nguy cấp, triều đình nhu nhược lại cho phép dân chúng cảm thán: “Tiếng gió hạc kêu hơn mười tháng trời mưa như nắng hạn”, thể hiện sự lo lắng, căng thẳng và sợ hãi trước sự sự tấn công ác liệt của địch. Là những người con, họ chỉ biết mong cho cha mẹ, cho đất nước thanh bình để họ an cư lạc nghiệp, nhưng họ chỉ mỏi mòn chờ đợi mười tháng có lành. Tất nhiên, họ không thể mở mắt nhìn đất nước rơi vào tay giặc. Trước đó, họ ghét họ chỉ vì “mùi bột chiên”, chỉ là mùi hôi thối của giặc Pháp với hình ảnh so sánh rất độc đáo “nông dân ghét cỏ”. Đây là một lý do tự nhiên. Chữ rất bắt mắt, phù hợp với tâm lý, tư duy của người nông dân. Lòng căm thù càng bị đẩy lên cao độ khi “có hôm thấy bọt nước trắng lốp”, “có hôm nhìn thấy ống khói biến thành màu đen” mà “muốn ăn gan”, “muốn cắn vào cổ”. Đau đớn đến tận cùng, và căm hận tột cùng, cho đến khi câu tiếp theo lên đến đỉnh điểm: “Trong lửa ai chặt rắn đuổi được nai; hai mặt trời trăng sáng, chẳng còn nơi nương tựa.” cho người treo cừu, bán chó ”. Chữ phồn thể, cổ điển, chữ Hán, chữ Việt. Đặc biệt, thành ngữ“ Treo cổ bán chó ”thể hiện ý chí đánh giặc và con mắt tinh tường của nhân dân. Những chiếc mặt nạ “khai hóa”, “truyền đạo” của giặc Pháp đã bị vạch trần, lộ rõ ​​dã tâm cướp bóc của chúng trên đất nước ta.

Truyền thống và tinh thần của dân tộc cùng với tội ác của giặc Pháp đã thôi thúc họ hết lòng đứng lên chiến đấu vì dân tộc Việt Nam. Các nhà thơ rất ấn tượng về tinh thần và việc làm của họ, tương phản rõ rệt với sức mạnh của người nông dân. Thay vì đợi người đến bắt, chúng lại chủ động tấn công “Lần này tao ngắt, tao còn không thèm trốn, lần này ra mặt hổ.”. Họ “quật bùn đứng dậy” chiến đấu, trong tay họ có những vật dụng đơn giản là công cụ lao động hàng ngày của người nông dân như thường dân, ngọn tre, cung tên, dao phay… Họ không có trong tay. máu quân sự, không có huấn luyện, và không có tổ chức, không có chỉ huy, đội ngũ, kỷ luật và vũ khí cơ bản. Chính những cái “không” này đã làm nổi bật cái “có” vô giá ẩn chứa trong con người Canjiao. Bởi họ có quyết tâm đánh giặc, có lòng yêu nước bền bỉ, lòng căm thù giặc vô bờ bến. Chính điều này đã tạo nên một sức mạnh vô song cho họ, giúp họ có thể bước lên hàng rào và lao về phía trước, mặc kệ tình thế của kẻ thù, không sợ đạn lớn, đạn nhỏ mà liều mạng xông vào, như không có chút sợ hãi. Giọng điệu hùng hồn, sôi sục ở những khoảng ngắt nhịp và nhịp độ nhanh, đi kèm với các động từ mạnh “đập hàng rào”, “đập cửa vào”, “đập phá trở lại và” và một giọng điệu cứng rắn.

Nỗi tiếc thương của nhà thơ đối với những liệt sĩ đã khuất được thể hiện qua lời mở đầu của đoạn 3 thật “thương tâm”. Từ “ôi” xuất hiện ở cuối thể hiện lòng thương xót và lời cầu nguyện của linh mục. Giọng điệu buồn rơi xuống vực thẳm của nỗi buồn. Tác giả thương cảm sâu sắc cho những con người phải chịu cảnh “ăn tuyết nằm lăn” đến “mưa làm gió”. Ông khẳng định ý chí kiên định của dân tộc là “vinh quy bái tổ” chứ không chịu hạ mình làm nô lệ. Đằng sau tiếng hét, tiếng khóc thê lương là tâm tư, nguyện vọng của tác giả. Anh ấy muốn hòa bình trong đất nước, thoát khỏi đói nghèo và khó khăn cho người da đen, và tự do khỏi kẻ thù. Dù bị mù và không thể tham chiến nhưng Ruan Dingzhao vẫn gặp gỡ các thủ lĩnh của quân nổi dậy và bàn kế hoạch đánh kẻ thù. Anh ở lại Bari khi kẻ thù xâm lược và chiếm đóng Nanji, chúng tìm cách dụ dỗ và mua chuộc anh nhưng anh kiên quyết từ chối, hết lòng hướng về đất nước.

“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là bài văn xuôi thành công nhất trong thể loại văn tế của triều Nguyễn. Bài viết này có một đóng góp mới cho nền văn học dân tộc khi sử dụng khéo léo những tác phẩm nghệ thuật đắt giá. Một là đóng góp mới: hình tượng người nông dân Việt Nam lần đầu tiên đi vào văn học một cách giản dị nhất, với thái độ, diện mạo, tính cách, tình cảm, cảm xúc rất rõ ràng. Đề tài liên quan đến thực tế đất nước lúc bấy giờ. Điều đáng chú ý là sự chuyển dịch ý thức hệ của tầng lớp trung lưu làm gia tăng chủ nghĩa hiện thực và giảm “vũ khí” lý tưởng. Tác phẩm này đã biến văn học thời kỳ này thành vũ khí chống lại kẻ thù, chống lại những tư tưởng đầu hàng và những tư tưởng phản quốc. Thứ hai là việc sử dụng thành công các kỹ thuật nghệ thuật đắt giá. Nghi lễ được viết bằng văn vần và có một bản mệnh riêng. Các từ nói trực tiếp, gọi tên các trạng thái khác nhau như buồn bã, đau buồn, và đôi khi là tự hào. Sử dụng linh hoạt hệ thống từ gợi hình, gợi cảm: cút, xéo, não nuột, luộm thuộm. Ngôn ngữ giản dị, mang đậm màu sắc quê hương đất phương Nam: chim cút, chắp vá, rạ, rựa. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa những câu chuyện cổ điển, những ước lệ tượng trưng như: tiếng gió hạc, tiếng cừu, tiếng mối, rắn rết và đuổi hươu. Nghệ thuật tương phản tinh tế đặc trưng của các thể loại văn học được thể hiện rõ nét qua những câu văn có cấu trúc ngôn ngữ trùng điệp: “Hãy đợi / không muốn / phải / thôi / đừng đợi / đừng đợi…” Hai cấp độ. nghệ thuật tương phản được sử dụng thành công là “Ngọn lửa… thanh gươm… / Việc quan huyện không sợ Tây… / Người đã đâm chết Xia Xian trước khi… súng… nổ.” Sự linh hoạt giọng điệu có lúc hùng tráng, thể hiện sự ngạo nghễ sục sôi, có lúc bi tráng nói về mất mát, bình yên Đau thương khôn nguôi.

Chính những điều đó đã khắc họa nên hình ảnh người nông dân Canyu anh dũng hy sinh vì nghĩa lớn, lòng yêu nước nồng nàn, “Nó đã tạo thành một làn sóng rất mạnh, nó vượt qua mọi gian nguy, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả thủy thủ và những tên cướp nước.” Với tinh thần này. , người đàn ông này đã trở thành một hình ảnh đẹp, đáng khâm phục và là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ Việt Nam. Nếu như trước khi thực dân Pháp xâm lược, thơ và văn của Duccio chủ yếu thuộc thể loại tiểu thuyết, với đặc điểm tiêu biểu là Lu Wentian, nhằm truyền bá đạo đức và tư tưởng nhân văn, thì giai đoạn sau năm 1858, thơ và văn. Ngọn cờ đầu của thơ ca chống Pháp đầu thế kỷ 19, cổ vũ tinh thần yêu nước. Những hy sinh ấy đã làm nên một ngôi sao Nguyễn Đình, một ngôi sao thực sự tỏa sáng theo cách riêng của mình trên bầu trời nghệ thuật dân tộc.

Bài văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – Văn mẫu 6

Nguyễn Đình Chiểu là một trong những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam. Nhưng cuộc đời không suôn sẻ, năm 1849 ông phải bỏ thi về quê chịu tang mẹ. Trên đường đi, ông bị mù do đau mắt, sau này ông ra đi dạy học, bốc thuốc chữa bệnh cho nhân dân, cuối cùng tham gia chiến đấu với quân Pháp. Có lẽ vì ông đã dành nhiều thời gian cho mọi người nói chung, đặc biệt là những người nông dân, thấu hiểu những vất vả, khó nhọc liên quan, nhưng lại mang một vẻ đẹp bi tráng, sẵn sàng hy sinh vì nhân dân của những người nông dân miền Nam mà ông từng phục vụ. Theo yêu cầu của Daoguang, tác giả nổi tiếng “Nhà từ thiện của Canruo”.

Bài này được chia thành bốn phần: Phổi kiếp, Xi Shi, kết thúc, kết thúc. Với bố cục như vậy, Ruan Dingzhao đã dựng lên một tượng đài nông dân bất tử trong tâm trí người đọc, người nghe.

Ngay từ đầu, Ruan Dingchao đã đưa ra lý thuyết về sự sống và cái chết. Tức là phải đứng lên chống giặc ngoại xâm, vì giặc pháo ầm ầm, lòng dân sẽ thấu trời. Và cứ thế, ông bày tỏ sự phẫn nộ của nhân dân trước hành động xâm lược đất nước của mình. Ngoài ra, ông còn ví danh tiếng mười năm miệt mài dỡ ruộng của địch như cuộc viễn chinh về phía tây, danh tiếng mười năm mang lại cũng không thể sánh bằng phao chiến. Trong cuộc viễn chinh về phương tây, tiếng anh hùng vang lên tiếng súng anh hùng.

Cũng bởi lẽ sống chết đó, cộng với thói yêu nước, căm thù giặc, chẳng khác gì người nông dân ghét cỏ, căm thù giặc muốn ăn gan, cắn cổ giặc ngoại xâm. Nhận thức “nước mất, nhà tan” sôi sục, giai cấp nông dân vùng lên nổi dậy. Đó là những người nông dân mồ côi làm nghề buôn bán trước đây chuyên làm nghề cuốc cào, còn những công việc quân sự như luyện khiên, luyện súng, luyện đánh dấu, luyện cờ mà họ chưa từng thấy, chưa từng thấy. Có người đến, người đến để bắt, và họ đã cố gắng hết sức để tự nguyện ngừng chiến trước khi họ trở thành những người lính. Họ là những người nông dân dũng cảm chiến đấu sinh tử, là những anh hùng không sợ mũi nhọn sắt thép bước vào hàng rào, thấy kẻ thù như không tồn tại, không biết người phương Tây trúng viên đạn nhỏ nào với đạn lớn, nhưng anh ta lao vào và không bị gì. Mặc dù vũ khí thô sơ, chỉ có ngọn chuyền, đục, dao, mũ gõ nhưng họ vẫn lao vào kẻ thù và đâm, chém ngược, làm ác mã; người Hạ Môn trước, đại bàng sau, đoàn kịch gọi thuyền thiếc , thuyền bằng đồng với súng. Họ chiến đấu vì tổ quốc, vì tổ quốc nên họ sẵn sàng rời xa gia đình. Đây là nội dung thực sự thích phần.

Trong phần thương tiếc, Nguyễn Đình Châu chia buồn với những người nông dân trong Chiến tranh Cần Thơ với vẻ đẹp bi tráng và lòng yêu nước ngoan cường không sợ hy sinh. “Giấc ngủ muôn đời là chữ đức, hay da ngựa bọc xác; trăm tuổi ở cõi âm có lời nguyền, chờ gươm hùm treo lên mồ” nên “già trẻ lớn bé. , hai dòng chữ nhỏ “,” mẹ già ngồi khóc. Đèn khác trong lều. Bò về phía trước “,” Vợ yêu chạy đi tìm chồng “. Đây là niềm thương cảm, xót xa, thương cảm đối với quân sĩ của triều Nguyễn Đình và toàn thể nhân dân Càn Ngọc.

Cuối cùng, tác giả nhấn mạnh một lần nữa rằng ở đời phải tôn trọng kẻ cầm quyền, kẻ thù đến phải như một liệt sĩ dốc hết sức mình để bảo vệ đất nước. Các liệt sĩ dù hy sinh vẫn luôn hiên ngang cùng Tổ quốc bảo vệ Tổ quốc.

Tóm lại, sự hy sinh của văn nhân Ruan Dingzhao đối với liệt sĩ Qinyu là một giai đoạn đau thương nhưng vĩ đại trong lịch sử dân tộc, đặc biệt là tiếng kêu thảm thiết trước bức tường thành bất tử của nông dân Qinyu và thậm chí của cả dân tộc. Anh đã chiến đấu anh dũng và hy sinh vì tổ quốc. Văn xuôi cũng là một thành tựu xuất sắc về nghệ thuật khắc họa nhân vật, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trữ tình và chất hiện thực, ngôn ngữ giản dị, trong sáng, sinh động.

Bài văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – Văn mẫu 7

Nguyễn Đình Chiểu có nguồn gốc Nho học. Năm 1846, ông trở lại Jiading và mở trường dạy cách bốc thuốc và làm thơ cho mọi người. Khi giặc Pháp dụ dỗ, ông vẫn trung thành với đất nước và nhân dân. Những bài thơ, bài văn của Người chứa chan đạo đức và lí tưởng nhân nghĩa cao cả, chí khí, trung hậu, biết giữ nhân cách ngay thẳng, cao thượng, dám chiến đấu, đủ sức chiến thắng cường quyền tàn bạo, cứu nhân loại.

Bài văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một trong những tác phẩm như thế. Bài viết là tiếng khóc chân thành của tác giả và tiếng khóc hy sinh anh dũng của nhân dân. Văn tế là một loại văn thường được dùng khi cúng tế người chết, và nó có hình thức tế – ý. Văn tế được chia thành các phần như sau: linh ứng là sự khải thị chung cho người chết, người thực kể lại công lao của người chết, thương tiếc người chết, phần kết nêu ý nghĩa và lời mời của người cúng tế. đã chết. linh hồn. Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc có bốn đoạn như vậy.

Bài thơ mở đầu bằng một lời than thở:

“Chúa ơi! Tiếng súng của kẻ thù vang dội trong lòng người dân nước thiên đàng.”

Tiếng rên rỉ nghe đau đớn. Câu cảm thán đó đưa chúng ta đến một cảnh tượng tang tóc chết chóc, một cảnh tượng chiến tranh tàn khốc với những người chết trên chiến trường. Chúa biết tấm lòng của loài người, nỗi đau buồn và nỗi buồn trong trái tim của những người thân yêu của những người đã thiệt mạng trong trận chiến. Tiếng khóc bi thương của tác giả xuất phát từ nhiều nguồn cảm xúc. Đây là niềm cảm phục và niềm thương cảm vô hạn của tác giả đối với những người nông dân anh hùng. Các chi tiết “Xác Vội Vã”; “Chờ Gươm Mả Mả”; “Ơn Trời Cho Một Mảnh Đất”, “Báo Tài Chính Đất Nước”; “Con Cá Quan Quân Rắc Rối”, “Ăn Tuyết Nằm Trôi” Sương ”; tấm lòng nhân ái được thể hiện qua“ Pháo đài vỡ ”một lần nữa Khẳng định những người lính chỉ là những con người bình thường, nhưng sẵn sàng vươn lên vì lòng yêu nước.

Ngoài ra, tác giả sử dụng “chỉ là người làng”, “ngoài thận còn áo vải”, “tay cầm ngọn tre” để miêu tả hình ảnh người lính thật đẹp. Đó là những hình ảnh về những con người chân lấm tay bùn, cơm không đủ no, áo không đủ mặc. Đối với cuộc sống hàng ngày của họ, tác giả miêu tả họ bằng những câu đơn giản, dễ tiếp cận và không khoa trương, và họ dường như là những người “phải làm việc vất vả để lo lắng về cái nghèo” và “không quen cung cấp dịch vụ.” ..có ngựa “,” tích ruộng, cào ruộng, đánh võ, quen rồi; luyện khiên, súng, cờ chưa từng thấy “. Từ đó cho ta cái nhìn tổng thể đầy đủ nhất về những người nông dân. Họ là những người dân lao động bình thường, họ rất trung thực, họ không bao giờ muốn chiến tranh, không cướp bóc, không muốn xâm lược nước khác để làm giàu, nhưng họ hài lòng với cuộc sống khốn khó, vất vả và yên bình. Có lẽ ước mơ lớn nhất của họ là có đủ ăn. Tuy nhiên, khi đất nước lâm nguy, pháo địch nổ vang trời quê hương, hừng hực khí thế bất chấp “Lăn súng” cho thấy kẻ thù đã sử dụng vũ khí rất tối tân thay cho dùi cui, khiên và mác. thấy rằng có một khoảng cách lớn giữa khí giới của hai bên, nhà văn đã miêu tả vẻ đẹp của những con người yêu nước thật giản dị: “Hơn mười tháng, tiếng gió hạc thổi, như nắng hạn, như mưa trong chiến tranh, đã được ba năm, ghét phong tục là như thế này. Nhà ma ghét Cỏ ”.

“Thấy cái lốp trắng muốn ăn gan, thấy ống khói đen lại muốn chui ra cắn vào cổ” Vì vậy, dân làng dù có áo vải trong tay ngoài quả thận. , họ tay cầm gậy tre, nhưng vẫn sẵn sàng tự nguyện hy sinh vì nghĩa lớn. Trưởng hai họ “,” quan quận đánh trống khua chiêng kêu họ bước vào hàng rào coi giặc chứ không sợ bọn Tây bắn đạn nhỏ xông vào. “Tôi không nghĩ là tôi có”, đó là lý do tại sao “người đàn ông đã đâm anh ta qua lại khiến con ma khiếp sợ con đại bàng phía sau tàu, người đàn ông phía trước tàu và khẩu súng.

Tác giả đã khắc họa thành công hình ảnh đội quân nổi dậy Canyu. Đoạn văn miêu tả nguồn gốc, ngoại hình và hành vi của tầng lớp quý tộc nông dân cho thấy họ chỉ là những người bình thường, chất phác, cần cù nhưng khi nước có giặc, họ gánh vác trọng trách bảo vệ Tổ quốc. Sẵn sàng hy sinh vì nước. Việc thể hiện hình ảnh người nghệ sĩ, từ trang bị đơn sơ, hành động dũng cảm, đến sự sẵn sàng hy sinh bản thân để bảo vệ gia đình và đất nước, tất cả đều rất tỉ mỉ.

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – Văn mẫu 8

Có lẽ với những ai yêu thích văn học, đề tài người nông dân vốn đã quá quen thuộc, trở thành đề tài “chọn mặt gửi vàng” của nhiều “cây bút”. Chúng ta có một người nông dân bị xã hội đẩy đến bờ vực trong “Chí Phèo” và mất hết “nhân tính, nhân tính” – Nam Cao. Hay hình ảnh con gà trống “chạy trong trời tối đen như tương lai của nàng!” Tuy nhiên, trong tác phẩm “Lights Out” của Ngô Đát Kỷ, lần đầu tiên trong văn học Việt Nam xuất hiện một tượng đài nông dân uy nghiêm và uy nghiêm của nhà từ thiện Zhan Yu ”. . Ngoài việc khắc họa những hình ảnh bi tráng, hy sinh quên mình của những người nông dân chống Pháp, cống còn là nỗi niềm của tác giả đối với “người anh hùng áo vải”.

Sự hy sinh ra đời trong bối cảnh thực dân Pháp “lộng hành” trên đất nước ta. Sau khi quân Pháp chiếm được thành Giao Chỉ, họ bắt đầu xâm lược các vùng lân cận như Sìn An, Cần Thơ, Cao Cống … Ngày 16 tháng 12 năm 1861, nông dân Cần Nguy nổi giận phục kích quân Pháp và đánh bại một số quân Pháp. quân đội. Cuối cùng là tôn vinh người anh hùng dũng cảm.

Mở đầu bài viết, tác giả lên án tội ác của bọn thực dân:

“Chúa tôi!

Súng bắn vỡ đất; lòng người hiển hiện … “

Tiếng súng vang lên khắp nơi, âm thanh rung chuyển cả trái đất. Nhưng từ trong gian nguy mới thấy được bản lĩnh và đức độ của những người nông dân bình thường. Những gì họ làm được đã chống chọi lại sự “thử thách” của trời đất, và được lịch sử ca ngợi là “trận chiến chính nghĩa với Tây, dù thân mất âm vang như con la”. Ở những dòng đầu tiên, tác giả ca ngợi trực tiếp những hành động anh hùng của người nông dân. Họ sẵn sàng hy sinh thân mình để đánh đuổi quân xâm lược.

Từ việc khẳng định ý nghĩa trọng nghĩa của sự hy sinh của những người nông dân Cần Giuộc. Tác giả chuyển sang miêu tả hình ảnh của họ trong cuộc sống, công việc hàng ngày và khi họ trở thành những anh hùng đánh giặc, lập công:

Nhớ lại tinh thần xưa:

Doanh nghiệp mồ côi; Nỗi sợ đói nghèo ”

Họ chỉ là những người nông dân chân chất, hiền lành, quanh năm “bán mặt cho đất, cho trời”, hòa mình với trâu, bò, lũy tre làng. Vừa thích làm ăn, vừa muốn “kiếm sống”, họ chỉ biết “cuốc, cày, bừa, cấy cho quen”, vì những công việc này hàng ngày gắn bó với người nông dân. Nhưng những người lính “chưa dùng cung, ngựa thì đi học trường nhung”, đối với họ đó là “luyện khiên, giáo, mác, cờ tàn, mắt không tròng”. Bạn có thể thấy những nông dân của Ruan Ding, Qiao chỉ quen làm công việc đồng áng và chưa bao giờ “động tay” đến súng. Mặc dù bản thân anh ta không phải là một người lính thiện nghệ, cũng không phải là một người có kỹ năng sử dụng vũ khí. Tuy nhiên, những anh hùng đó vẫn rèn luyện dũng cảm và đứng lên đánh giặc. Mọi hành động của họ đều vì lòng căm thù tội ác của kẻ thù.

Tác giả cũng ngầm chỉ ra một nguyên nhân khác khiến người nông dân điêu đứng là “đàn hạc hát mười tháng, trời như nắng hạn chờ mưa”. Sự nhu nhược của triều đình, lại không có hành động chống lại tội ác của kẻ thù, đã buộc nông dân ở Tần Ngư phải “chờ người hỏi, bắt người, lần này hãy ra tay ngăn cản. Kính; chớ vội trốn vào. chiều ngược lại, Chuyến đi này nhằm vào con hổ. nông dân được sử dụng, “bước lên thuyền và khóc như mưa” – một chút yếu đuối và tinh thần nếu bị cưỡng bức, ở đây chúng ta thấy hình ảnh của một người nông dân hoàn toàn sẵn sàng, sẵn sàng chiến đấu và không bị điều khiển bởi bất kỳ thế lực nào khác. Đây cũng là một trong những những điều làm nên vẻ đẹp của người nghĩa sĩ Cần Giuộc khác với những người nghĩa sĩ nông dân khác.

Có thể thấy, những người nông dân trong “Thiện nữ u hồn” không chỉ phải luyện kiếm để chiến đấu mà sự hy sinh của họ còn được thể hiện ở cách vượt qua khó khăn. Chỉ là “Dobu” không cần phải trang bị tất cả đồ bảo hộ, nên anh ta bắt đầu chiến đấu:

“Bên cạnh quả thận có chiếc áo vải đang chờ đóng vào bao da;

Với một xiên tre trong tay, cô ấy xin một con dao và một chiếc mũ lưỡi trai. “

Tác giả Ruan Dingzhao dẫn dắt người đọc từ từ khám phá nội tâm của những người nông dân. Nếu như phần trên, chúng ta khâm phục ý chí sắt đá của người nông dân và trui rèn tinh thần quyết chiến, thì phần tiếp theo tác giả tái hiện chân thực không khí sục sôi khi đánh giặc, như tinh thần “nhấn chìm hết bọn buôn nước, giặc cướp”. . (“Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” – Hồ Chí Minh).

“Trống, trống, trống, trống, trống, trống, trống

Không sợ Tây đánh đạn nhỏ, đạn to, đập cửa xông vào, liều mạng.

Có người đâm ngang, có người chém dọc, lén lút;

Những chàng trai của mùa hè, Đại bàng theo sau, để cho những chiếc thuyền thiếc nổ tung dưới ánh lửa.

Bằng cách liệt kê, tác giả liên tục đưa ra những hành động phản chiến của nông dân “đánh trống, đánh trống, xông tới”, rồi “đánh ngang, chém dọc” khiến nhịp điệu tế nhanh, gấp gáp. Tử sĩ chiến đấu. Nhạc điệu của bài thơ dần trở nên hào hùng, càn quét chiến trường như một cơn cuồng phong. Tinh thần chiến đấu ngày càng sục sôi, ngày càng lên cao.

Nhìn lại hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, khi thực dân tấn công nước ta, triều đình Huế nhu nhược, không có thái độ đối phó với kẻ thù. Phục tùng đầu hàng, bám lấy ngai vàng, bỏ qua trách nhiệm bảo vệ đất nước. Nông dân cả nước, đặc biệt là những người “nghĩa sĩ” Cần Giuộc đã đứng lên đòi tự do và bảo vệ bờ cõi. Tuy nhiên, sự không cân xứng về sức mạnh của địch và địch đã khiến một số liệt sĩ đã ngã xuống. Tuy nhiên, “bản thân” của họ là nghĩa cử của những anh hùng dũng cảm đã anh dũng đánh đuổi quân xâm lược và bảo vệ đất nước của họ. Sự hy sinh này là niềm tiếc thương của Nguyễn Đình Châu, không chỉ đối với những người đã khuất, mà còn là sự cảm thông, chia sẻ của những người thân trong gia đình người “anh hùng” buộc phải “dừng tay”.

“Đau quá! Mẹ già ngồi khóc, đèn khuya leo lét trong lều;

Hãy động não để thay thế! Người đàn bà yếu đuối chạy đi tìm chồng, bóng người trước ngõ dần khuất. “

Không có gì đau đớn hơn một người mẹ bỏ con, một người chồng bỏ vợ! Không có nỗi đau nào lớn hơn sự mất mát của một người thân yêu. Những nghĩa sĩ Cần Giuộc càng anh dũng, dũng cảm bao nhiêu thì người đọc càng thấy thương và căm phẫn quân Pháp bấy nhiêu. Tác giả đã dùng tiếng thở dài như xé trời, tiếng thở dài về độc lập dân tộc. Nguyễn Đình Chiểu đã có một so sánh hay khi “Mẹ xưa” giờ như “ngọn đèn khuya”. Chiều mẹ nào cũng có con chăm sóc, bảo bọc nhưng mẹ Canyu chỉ biết khóc thương con. Các bà mẹ đang leo trèo, đói khát và không biết phải tìm ai vì con của họ đã không còn ở đâu nữa. “Những người vợ yếu đuối” như “bóng trôi trước ngõ” vì không tìm được trụ để nương tựa. Họ đang vật lộn để đu đưa vì họ đã đột ngột mất đi một phần rất quan trọng của cuộc đời mình. “Lạc trôi” cũng có thể là sự mong chờ, ngóng đợi chồng về nhưng chẳng đi đến đâu! Những anh hùng đó đã hy sinh vì sự nghiệp chống Pháp xâm lược, vì lý tưởng bảo vệ Tổ quốc. Hai câu thơ trên nghe thật buồn và đau xót cho Liệt sĩ Chanruo!

Cảm phục và tiếc thương cho các liệt sĩ, tác giả đã có một khoảng lặng khi đọc những vần thơ. Cuối cùng, tác giả vẫn chưa bằng lòng về hành động dũng cảm của những người nghĩa sĩ đối với Tổ quốc và nhân dân.

“Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, hồn theo quân, thề báo thù muôn đời;

Sống phải hy sinh cho vua, thác cũng hy sinh cho vua, lời dạy rõ ràng trong sáng, một lời ấm áp là đủ.

Nam chính không lau được nước mắt, thật xin lỗi trời đất;

Cây hương của liệt sĩ, thắp hương nến, dùng câu đối quốc công. “

Khởi đầu hy sinh cũng là khí phách anh hùng, kết thúc hy sinh họ còn mãi với non sông. “Chiến binh Chân Ruồi” quả thực là một bức tượng sống về những con người bình dị sẵn sàng đứng lên bảo vệ an ninh Tổ quốc. Hình ảnh “sống còn hơn chết” là biểu tượng vàng son cho khí phách anh hùng, vẻ vang của người nông dân.

Ở thể loại hy sinh, Nguyễn Đình Chiểu vẽ nên bức chân dung “nghĩa sĩ Cần Giuộc” dũng cảm quên mình, bằng ngôn ngữ giản dị với giọng điệu thương tâm. Ở họ, sự thiếu thốn khắc khổ, khó khăn trong việc huấn luyện vũ khí không làm người lính chùn bước, ngược lại đã đúc kết được tinh thần hăng hái, ý chí tự nguyện, quyết tâm đánh đuổi kẻ thù của họ. Vì vậy, trang anh hùng. Dù sự việc đã qua và chúng ta đã có một phần liệt sĩ nằm xuống nhưng sự hy sinh này là tiếng nói cao quý dành cho những người dù “thấp cổ bé họng” vẫn có quyền lên tiếng cho chính mình.

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – Văn mẫu 9

Nguyễn Đình Chiểu là một nhà văn tài hoa, đã nêu cao được bản lĩnh người nông dân trong văn học mà trong bài “Nghĩa sĩ Cần Giuộc” mới đây không ai không nhắc đến. Trong nghi lễ, hình ảnh người nông dân được khắc họa rõ nét. Hình ảnh người nông dân nghèo chỉ biết âm thầm làm ăn, quanh năm chỉ biết đến trang trại chăn trâu, chăm chỉ làm ăn. Họ là những người nông dân, khi thực dân Pháp xâm lược, họ đã có mối quan hệ yêu thương, căm thù, quyết không chịu chung số phận với kẻ thù. Họ đã chiến đấu anh dũng, hy sinh anh dũng, lời ca tiếng hát đượm buồn rưng rưng nhưng không rơi lệ. Đây là nét hấp dẫn của thơ Ruan Dingzhao.

Nhà từ thiện Tham Yuk sinh năm 1858 khi thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng, Việt Nam. Sau khi chiếm được thành Jiading vào đầu năm 1859, quân Pháp bắt đầu mở rộng tấn công sang các vùng lân cận như Sìn An, Cần Thơ, Cao Cống … Ngày 15 tháng 11 năm Kỷ Dậu. Những người lính nhưng nông dân vì quá phẫn nộ trước giặc ngoại xâm đã anh dũng tiến lên và chiến đấu chống lại các đồn Pháp ở Cần Ngọc, loại bỏ một toán giặc và cán bộ địa phương Việt Nam làm việc cho Pháp. Khoảng mười lăm liệt sĩ hy sinh. Những ví dụ này gây tiếng vang mạnh mẽ. Theo yêu cầu của Du Quang của chính phủ Jiading, Ruan Dingzhao đã viết bài báo “Sự hy sinh của các liệt sĩ ở Qinyu” để đọc tại lễ tưởng niệm các liệt sĩ đã hy sinh trong trận chiến này.

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được biết đến là một tác phẩm nghệ thuật hiếm có. Bi kịch là thân phận và tính chất của tác phẩm nghệ thuật: uy nghiêm, trang trọng, đau thương và bi tráng. Nội dung anh hùng được thể hiện trong chiến đấu vì nghĩa lớn. Phẩm chất anh hùng, đức hi sinh quên mình. Cái anh hùng nằm ở chỗ, nó dựng nên một thời đại quốc gia và dân tộc khốc liệt, bạo tàn và đầy biến động.

Mở đầu bài điếu văn là hai tiếng “Này!” Nghe bùi ngùi, là tiếng khóc của nhà thơ đối với các liệt sĩ, là tiếng khóc nức nở của quốc nạn: lòng dân đã tỏ ”nói đến nỗi khủng hoảng của quê hương. , tiếng súng giặc vang dội khắp đất trời, quê hương.

Khi nước mất nhà tan, chỉ có nhân dân đứng lên gánh vác sứ mệnh lịch sử, đánh giặc cứu nước và gia đình. Và người nông dân nghèo chỉ biết làm ăn đáng thương ấy đã anh dũng đứng lên đánh giặc, giành lại độc lập cho quê hương thân yêu, và lòng dũng cảm ấy xuất phát từ lòng yêu nước của mọi người. Lòng yêu nước, căm thù giặc của những người nghĩa sĩ nông dân và những người dân thường được thể hiện trong trời đất, sáng ngời chính nghĩa. Hình ảnh chủ đạo của lễ phục là các nghĩa sĩ Cần Giuộc.

Nguồn gốc của họ là những người nông dân nghèo, và họ sống như những đứa trẻ “mồ côi” sau những bức tường thành bằng tre của làng. Chất phác và hiền lành, chăm chỉ, lang thang trong làng, làm bạn với trâu, cày, cào, và rất xa lạ với Long nhung cung:

Nhớ lại tinh thần xưa:

Kinh doanh cút, lo nghèo.

Làm ăn cũng giống như một mình, im lặng đến đáng thương, dù mệt nhọc hay vất vả thế nào thì bạn vẫn âm thầm chịu đựng một mình mà không nói cho ai biết. “Kinh doanh cút bắt; Nỗi lo đói nghèo” thể hiện trọn vẹn vòng đời của người nông dân Việt Nam, “tình làng nghĩa xóm” ở phương Nam. Bắt đầu bằng cút, chăm chỉ làm ăn, chăm chỉ đi đến cuối con đường. Họ là những người nông dân quanh năm chỉ biết làm lụng chứ không biết cung, ngựa là gì.

Không quen cung ngựa đi học ở đâu;

Chỉ biết trang trại chăn trâu và sống trong làng.

Họ là một nhóm lớn những người sống gần chúng ta. Chân lấm tay bùn quanh năm làm ruộng, “chưa từng thấy” những người lính và vũ khí đánh giặc:

Cuốc, cày, bừa, cấy, làm bằng tay;

Thực hành khiên, giáo, mác, và cờ vua hơn bao giờ hết.

Tuy nhiên, khi quê hương bị giặc Pháp xâm lược, những người chân lấm tay bùn đã lên đường tình nguyện đi lính, đánh giặc, cứu nước, cứu quê hương, bảo vệ điều mà họ cho là việc làm tồi tệ. Những chiếc áo của họ chính là ý nghĩa tuyệt vời mà họ “yêu thích”:

Khi thấy một bào thai màu trắng, tôi muốn ăn gan;

Tôi nhìn cái ống khói chuyển sang màu đen vào ngày hôm đó và tôi muốn lao ra ngoài và cắn vào cổ mình.

Đối với giặc Pháp và bọn phản quốc, chúng chỉ có một thái độ: “ăn gan”, “cắn cổ”, và một ý định duy nhất: “lần này, hãy cố bẻ nó… cọp”.

Trong bài Văn tế Nguyễn Đình Chiểu, đội quân quê hương dũng cảm trái ngược hẳn với giặc Pháp xâm lược. Quân xâm lược được trang bị hiện đại, có cả “thuyền thiếc, thuyền đồng”, “bắn đạn nhỏ, đạn lớn”, lính đánh thuê “mã tà, ma trơi”. Thay vào đó, quân nổi dậy được trang bị rất kém. Quân trang chỉ là “một mảnh vải”. Vũ khí chỉ có “Scythe” hoặc “Chopper”, một loại súng hỏa mai bắn “bằng cung rơm”. Tuy nhiên, họ đã lập được kỳ tích: “đốt phá nhà tôn khác” và “chặt đầu hai quan”.

Bài viết này tái hiện lại thời chiến đấu ác liệt giữa nghĩa quân và giặc Pháp:

Trống ống, đánh trống, xô rào, lập lờ đánh địch;

Đừng sợ trai tây bắn đạn nhỏ đạn to, đập cửa xông vào, liều mạng.

Người xuyên không, chống trả, tạo ra ma quái, ác thần;

Hè trước, bàng sau, thuyền thiếc, thuyền đồng mang súng.

Trong khí thế chiến đấu, tiếng trống trận và tiếng “người Xia trước, tiếng bàng” vang dội cả một góc trời, và có cả tiếng súng nổ. Các liệt sĩ của chúng tôi, mặc kệ cái chết và không làm gì được, xông vào như vũ bão, lang thang giữa phòng tuyến quân thù: “Lao rào rào”, “Đập cửa”, “Hăng hái”, “Hè trước, sau này”. Tiếng nói của Nguyễn Đình Chiểu thể hiện bản lĩnh, tinh thần bất khuất của người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc. Anh cũng bày tỏ lòng ngưỡng mộ đối với người anh hùng nông dân. Đây là tác phẩm đầu tiên cho đến nay có hình tượng anh hùng nông dân

Trong bài “Nhà nhân ái của Chân Vũ” còn có tiếng khóc của người mẹ già ở quê đợi con về, nỗi nhớ chồng của người vợ, tiếng khóc của người con trong lúc chờ bố đi làm về. Nhiều liệt sĩ đã anh dũng ngã xuống nơi chiến trường:

Năm ý nghĩa vĩnh cửu này;

Đâu biết xác thịt vội vàng ra đi.

Xin gửi lời chia buồn sâu sắc tới đất nước và quê hương. Căn phòng tuyệt vời cho đau buồn và đau đớn:

Sông Cần Giuộc dặm vá đồng cỏ;

Nhìn vào chợ Trường Bình, có hai dãy già và trẻ nhỏ.

Tiếng khóc của người mẹ già, nỗi đau của người vợ trẻ, nỗi xót xa của đứa con thơ đều đầy xúc động:

Mẹ già gào khóc đau đớn, ánh đèn trong lều leo ​​lét đêm khuya;

Người vợ bất lực chạy đi tìm chồng thay cho người vợ yếu đuối, bóng người lững lờ trước ngõ.

Các liệt sĩ đã sống anh dũng trong chiến đấu và hy sinh trong danh dự. Tấm gương chiến đấu và hy sinh của họ là để cho chúng ta biết rằng dân tộc nào cũng độc lập, tự chủ. Không ai có quyền xâm phạm. Họ là một tấm gương rất đáng tự hào:

Ồ! Mây tan; huy hoàng ngàn năm.

Sự hy sinh của liệt sĩ Canruo là bài học quý giá mà họ đã để lại. Thà chết trong danh dự còn hơn sống trong ô nhục. Họ là tấm gương sáng mà dân tộc Việt Nam noi theo và làm theo, là ngọn hải đăng soi đường cho dân tộc Việt Nam.

Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, hồn đồng hành cùng quân, thề báo thù muôn đời;…

Chiến công của người nông dân anh hùng Thẩm Ngọc sẽ mãi mãi khắc ghi trong lòng mỗi người Việt Nam, tấm gương anh dũng, sẵn sàng hy sinh quên mình vì độc lập tự do của Tổ quốc.

Nam chính không lau được nước mắt, thật xin lỗi trời đất;

Cây hương liệt sĩ càng thơm, cây nhang càng là câu đối của Tổ quốc.

Kết bài, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc khẳng định tấm lòng yêu thương nhân dân chân thành của Nguyễn Đình Chiểu. Việc tri ân các nhà từ thiện Canyu là niềm tự hào và lòng biết ơn sâu sắc của nhân dân ta đối với các liệt sĩ nông dân Canyu đã anh dũng chiến đấu chống giặc ngoại xâm để bảo vệ nền độc lập vững chắc của Tổ quốc nơi họ sinh sống và lớn lên. “Chuyện ấy” của họ rất quan trọng trong cuộc sống. Đọc xong bài văn tế này để xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, người anh hùng nghĩa sĩ Cần Giuộc là tấm gương về lòng dũng cảm và lòng yêu nước sâu sắc cho bao thế hệ.

Phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – Văn mẫu 10

Đó là tinh thần yêu nước của dân tộc Việt Nam đang sục sôi trong bối cảnh hàng nghìn năm. Ở mỗi giai đoạn, lòng yêu nước, đặc biệt là hình tượng những người chiến sĩ yêu nước lại có một biểu hiện khác nhau. Đến với “Nhà nhân ái Tiết độ sứ”, chúng tôi càng xúc động, nghẹn ngào trước sự hy sinh và lòng yêu nước của những người nông dân, chiến sĩ năm xưa.

Trước hết, ở phần đầu của tác phẩm, Ruan Dinh Zhao đã tái hiện không khí của thời đại lịch sử lúc bấy giờ: “Tiếng súng giặc vang, lòng người thao thức”. Những câu văn ngắn gọn, tiết tấu nhanh phần nào có thể thấy được không khí sục sôi, ngọn lửa hừng hực của thời đại được lồng vào đó. Trên nền hàng ngàn cây xanh rủ xuống, vẻ đẹp của những người nông dân, người lính năm xưa dường như càng thêm nổi bật:

“Nhớ linh cữu xưa:

Cút kinh doanh; sợ nghèo,

Nếu bạn không rành về cung ngựa, bạn có thể học nhung ở đâu?

Chỉ biết trang trại chăn trâu và sống trong làng.

Cuốc, cày, bừa, cấy, làm bằng tay;

Thực hành khiên, giáo, mác, cờ vua và không bao giờ có mắt “

Họ không phải là những người lính quen chiến đấu, họ là những người dân lương thiện, làm ăn nghèo khó nhưng khi đất nước cần họ đều hết lòng vì đất nước. Họ chấp nhận hy sinh, thậm chí cả tính mạng của mình vì sự nghiệp cao cả, vì tiếng gọi thiêng liêng của dân tộc. Biết trước hiểm nguy, họ xông pha không chút do dự, không cần người lãnh đạo, họ vẫn hiên ngang xông pha trận mạc, vẫn thể hiện khí phách quật khởi:

“Chờ người hỏi bắt ai, lần này xin phá đi – đừng chạy trốn, đây là một con cọp.”

“Không thèm chạy ngược xuôi”, câu nói của Ruan Dingzhao không phải để nhắc lại một sự thật bi thảm trong quá khứ, đó là những người lính ra chiến trường, không nhất thiết phải tự nguyện mà bắt buộc phải hành động. Bất công nên khi từ biệt gia đình, “nước mắt như mưa” bước xuống đò. Hai câu kết của Nguyễn Đình Chiểu phần nào nói lên tâm thế, thái độ của người chiến sĩ khi họ chiến đấu vì hòa bình và tương lai vĩnh cửu của đất nước, chiến tranh với chiến tranh, chiến tranh đầy dã man và hủy diệt bất công, hủy hoại nhiều sinh mạng. Những người khốn khổ và khốn khổ.

Ngay trong cuộc chiến năm xưa, giữa quân ta và quân địch đã có một khoảng cách rất lớn, đầy đối lập và ngang sức ngang tài. Nhưng những người lính nông dân chân lấm tay bùn ấy vẫn xông lên phía trước, vẫn chiến đấu hết mình. Thậm chí còn lập nên một kỳ tích chói lọi:

“Chỉ những vũ khí cơ bản như:

Đốt mơ, đánh bằng rơm, và thiêu rụi một ngôi nhà tôn giáo khác,

Thanh kiếm mà máy đánh bạc đeo trên người cũng cắt đứt đầu của hai người kia.

Một kẻ giết người, một kẻ chống lại kẻ giết người, khiến ác nhân Mani phải khiếp sợ. “

Đó là những chiến công hiển hách, đánh đổi bằng xương máu của biết bao chiến sĩ nông dân, đồng thời, hình ảnh của họ còn là đại diện hùng mạnh của dân tộc, của một dân tộc quật khởi, đánh thắng cả kẻ thù, kẻ thủ hùng mạnh nhất. Có thể thấy, trước Ruan Dingzhao, Ruan Cui cũng đã ca ngợi và khẳng định sức mạnh của người dân Pingwucao, nhưng ở đó, nhà thơ Ruan Cui vẫn coi nông dân là “những người da đen nhỏ bé”. Mọi người cần được bảo vệ. Cái mới ở đây đối với Nguyễn Đình Chiu là ông đã cho người đọc thấy được sức mạnh thực sự của nhân dân, những con người không chỉ yếu đuối cần được che chở mà còn đầy dũng cảm và vĩ đại.

Với tấm lòng yêu nước, những vần thơ của Nguyễn Đình Châu trong “Chân ngôn văn chương” cùng với lòng yêu nước và sự hy sinh cao cả của ông sẽ còn sáng mãi trên bầu trời văn học Việt Nam.

Phân tích về lòng hiếu thảo của nhà từ thiện Canyu – Mẫu 11

Lòng hiếu thảo của một nhà nhân ái được coi là tấm lòng trung thành của Viên Đình Chiu đối với các anh hùng, liệt sĩ của nhân dân Trung Quốc trong những ngày đầu chống Pháp xâm lược. Nhà thơ kiệt xuất trong nền văn học Việt Nam đã dựng lên một “tượng đài nghệ thuật” bi tráng về những người nông dân yêu nước, anh dũng chống giặc ngoại xâm. Họ là những người nông dân hiếu chiến, không sợ thực dân Pháp xâm lược, sẵn sàng hy sinh tất cả vì độc lập, tự do của Tổ quốc.

“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một “nghệ thuật” hiếm hoi ra đời khi thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng năm 1858. “Bi kịch” là thân phận và tính chất của tác phẩm nghệ thuật đó, uy nghiêm, thân thiết và bi tráng. Nội dung anh hùng được thể hiện trong chiến đấu vì nghĩa lớn. Phẩm chất anh hùng, đức hi sinh quên mình. Cái anh hùng nằm ở chỗ, nó dựng nên một thời đại quốc gia và dân tộc khốc liệt, bạo tàn và đầy biến động.

Bài điếu văn mở đầu bằng hai chữ “Này!” Tiếng khóc ấy như một lời than thở của nhà thơ đối với một liệt sĩ, một tiếng khóc thương tiếc cho đất nước lâm nguy lúc bấy giờ.

súng bắn đất,

Ý chí của ông trời được hiển lộ.

Hai câu thơ tả cảnh quê hương lâm nguy, tiếng súng đạn vang trời, khắp miền quê. Khi nước mất nhà tan, chỉ có những người nông dân đồng sức tiến lên, gánh vác sứ mệnh lịch sử, đánh giặc cứu nước, cùng gia đình. Đã thế, những người nông dân đã anh dũng tiến lên, đánh giặc, giành lại độc lập, dân chủ cho Tổ quốc. Tất cả đều bắt nguồn từ lòng yêu nước cao cả và lòng căm thù giặc sâu sắc. Họ đều sinh ra trong những người nông dân chất phác, cần cù, suốt ngày buôn mì bán đất, bán lưng cho trời, quanh năm chỉ chăm chỉ làm lụng, chỉ làm bạn với con trâu, lạc lõng. với cung điện. . nhưng

Nhớ linh cũ

doanh nghiệp mồ côi,

chỉ nghèo,

Cung và ngựa không quen được đưa đến trường nhung

Chỉ biết cư dân ruộng trâu;

“Những đứa trẻ mồ côi” thể hiện rõ nét sự khắc khổ của những người nông dân, những người quanh năm lao động cần cù, không lỗi lầm. Họ là những người nông dân chỉ biết làm gì và làm như thế nào, ngoài ra họ không biết gì về “cung ngựa” và “len”.

Họ là một bộ phận đông đảo, quanh năm chỉ biết đến đồng ruộng, cái cày mà “chưa từng thấy” vũ khí, khí tài đánh giặc.

Cày, cày, bừa, cấy quen tay;

Thực hành khiên, súng, súng, cơ bắp, và tôi chưa nhìn thấy chúng.

Cày, cuốc, bừa là công việc chính của họ, nghề nuôi sống họ nên người nông dân đã quen. Còn giáo, mác hay bàn cờ đều là những thứ hoàn toàn xa lạ, chưa từng “nhìn thấy”. Tuy nhiên, khi giặc Pháp xâm lược nước ta, những người nông dân chân ướt chân ráo vươn lên làm xung phong kháng giặc cứu nước, bảo vệ từng mảnh đất, từng mảnh ruộng như bảo vệ mảnh đất của mình. đất. lúa, ao, sự yên tĩnh của họ

Hơn mười tháng, tiếng gió hạc rung trời như mưa nắng hạn hán.

Mùi tinh dịch chiên ba tuổi ghét thói thường chẳng kém gì nông dân ghét cỏ.

Đối với giặc Pháp và tay sai xâm lược, chúng chỉ có thái độ “ăn gan”, “cắn cổ”.

Ban đêm thấy bọt bao phủ một lớp trắng là muốn ăn gan;

Tôi nhìn thấy ống khói chuyển sang màu đen vào ngày hôm đó và tôi đã định cắn vào cổ mình.

Một con mối khổng lồ, ai xẻo rắn đuổi nai;

Mặt trời và mặt trăng chói lọi, không chỗ dung lũ cừu chó.

Nhận thấy điều này, họ quyết tâm khởi nghĩa. Họ sẵn sàng đứng lên nếu cần thiết

Chờ người hỏi bắt ai, lần này xin phá.

Quá lười biếng thậm chí còn chạy xung quanh, chuyến đi này trở thành con hổ.

Họ hình dung ra một cuộc chiến tranh chính nghĩa. Họ sẵn sàng đáp lại tiếng gọi của dân tộc. Họ sẵn sàng chiến đấu, hy sinh tính mạng để giữ từng tấc đất, tấc vàng, giữ lấy những gì thuộc về đất nước Việt Nam. Hình ảnh của họ thật đẹp đẽ, cao cả và anh hùng.

Ruan Dingzhao khắc họa “tượng đài nghệ thuật” về sự hy sinh với những đường nét uy nghiêm và uy nghiêm nhất trong hình ảnh đoàn quân nổi dậy xông pha trận mạc. Tác giả xây dựng hai hình ảnh tương phản: đoàn thể dũng cảm của quê hương và giặc Pháp xâm lược. Nếu quân đội Pháp xâm lược được trang bị vũ khí tối tân như “thuyền thiếc, thuyền đồng”, “đạn nhỏ”, “đạn lớn”, “mật mã”, “mật mã” thì quân ta chỉ còn lại vũ khí, khí giới còn sót lại. và đơn giản là “Quần áo”, “Đỉnh núi”, “Máy cắt”. Giản dị và bình dị như chính họ đã dệt nên một chương lịch sử hào hùng và vẻ vang cho đất nước ta. Bên trong những chiếc áo “thắt eo” tội nghiệp này là cả một điều tuyệt vời và cao cả.

Ngoài thận còn có áo vải, chờ lấy bao, đầu bút,

Cô ấy cầm trên tay một chiếc sào tre và năn nỉ mua một con dao và một chiếc nón gỗ.

Đánh đám mai lửa bằng rơm rạ và thiêu rụi những ngôi nhà tôn giáo khác;

Thanh kiếm từng là dao phay cũng chém lìa đầu hai quan chức

Họ là những người giản dị và anh hùng. Họ là những người hiền lành khi làm ruộng, nhưng họ lại là một con người khác khi đối mặt với kẻ thù, mặc dù họ đều đứng lên bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc.

Khí thế chiến đấu hừng hực khí thế, các chiến sĩ anh hùng của quân ta coi cái chết là nhà, không quản ngại tiến vào giữa sào huyệt của địch, “đạp rào rào”, “xông qua cửa ải”, “băng qua”. chém gió “. ngang ngược”, “hè qua nhìn lại” …. Giọng thơ, sử dụng linh hoạt các động từ mạnh thể hiện ý chí quyết tâm, mạnh mẽ, nhấn mạnh tinh thần chiến đấu dũng cảm, không sợ chết, chính vì vậy, tác giả cũng thể hiện tình yêu của mình đối với hóa thân vào vai người lính nông dân đầy tự hào và ngưỡng mộ.

Các quan bỏ thời gian và tiền của, đánh trống, giẫm rào, mặc kệ kẻ thù.

Mặc kệ gã bắn đạn nhỏ, đạn lớn, gõ cửa xông vào, liều mạng.

Có người đâm ngang, có người chém dọc, làm ác mã, mồ mả thương tâm.

Hè trước, bàng sau, thuyền thiếc, thuyền đồng mang súng.

Trên tấm bìa của lễ vật xen lẫn những tiếng khóc, những giọt nước mắt tiếc thương được thể hiện qua phần thương tiếc. Có rất nhiều liệt sĩ đã ngã xuống vì sự nghiệp đấu tranh của Tổ quốc, “tuy thân tàn ma dại”, giọng điệu của bài thơ như chìm trong đau thương, xót xa.

Sau phút day dứt, tác giả nêu bật quan niệm nhân sinh cao cả về lẽ sống và cái chết.

Tại sao sống theo quân bên tả, một mình thắp hương, xúc bàn, nghĩ lại càng buồn;

Làm sao sống được trong lính tráng, chai rượu ngọt, nhấm nháp ổ bánh mì, nghe cọp beo.

Thà bắt giặc, mai sau tổ tiên được rạng danh.

Chưa kể còn đau đớn khi phải sống chung với những con người man rợ, bị dày vò bởi những tên viết tắt của Tây.

Ông đưa ra một ý tưởng nhân văn sâu sắc rằng dù có chết cũng không bao giờ trở thành nô lệ hay theo bọn giặc cướp của dân làng. Sống để theo quân Pháp, thà chết đi cho nghĩa sĩ, sống đánh giặc, chết đánh giặc. Sự thật thể hiện rõ quyết tâm và sức mạnh của dân tộc ta là chân lý sống huy hoàng, tiếp thêm sức mạnh cho tinh thần chiến đấu của dân tộc. Các liệt sĩ quyết tâm phụng sự Tổ quốc, phụng sự Tổ quốc.

Xen lẫn với giọng văn đầy tự hào, một lần nữa tác giả xen lẫn người mẹ với con, người vợ tảo tần ngày đêm chờ đợi ngày đất nước hòa bình và tiếng khóc đau thương của những người thân trở về. Nhưng nhiều anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống trong niềm tự hào

Đau đớn biết bao, mẹ già khóc trẻ, ánh đèn khuya leo lét trong lều,

Người vợ yếu ớt chạy đi tìm chồng, bóng xế vất vưởng trước ngõ.

Các liệt sĩ đã sống một cuộc đời anh dũng và chết không tiếc lời. Tấm gương chiến đấu anh dũng, hy sinh của họ sẽ mãi sáng ngời, sáng mãi, trường tồn non sông. Nguyễn Đình Chiểu đã phải thốt lên “ôi” để thể hiện niềm tự hào mãnh liệt của mình.

Ồ!

Một làn khói,

Ngàn năm phong quang rực rỡ.

Sự hy sinh của liệt sĩ Chanruo là bài học quý giá mà họ để lại cho thế hệ sau, “thà chết trong vinh dự còn hơn sống trong tủi hổ”. Bài học về sự sống và cái chết, hãy sống kiêu hãnh và chết là hãy kiên trì ngẩng cao đầu. Chính thái độ đó càng làm tăng tính chất bi tráng của những tượng đài nghệ thuật do những người nông dân anh hùng sáng tạo vì tự do dân tộc và độc lập dân tộc. Những chiến công to lớn đầy nước mắt, mồ hôi và máu của các liệt sĩ sẽ luôn khắc ghi trong trái tim mỗi người Việt Nam. Họ là những tấm gương sáng cần noi gương và là ngọn hải đăng cho dân tộc Việt Nam

Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, hồn sẽ giúp quân muôn đời, thề báo thù

Sống hy sinh cho vua, thác cũng hy sinh cho vua, giáo huấn rõ ràng.

Nam chính không thể lau nước mắt, tiếc thương cho chữ “Trời và Người”.

Dấu hương đốt bằng khứu giác, cây hương án thắp bằng câu thiên.

Bài văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc thể hiện tấm lòng yêu nước thương dân của đại thi hào Nguyễn Đình Chiểu. Bài vị thành kính bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của nhân dân ta đối với các liệt sĩ Tần Vũ đã anh dũng chiến đấu vì độc lập tự do của dân tộc. Họ là những tấm gương sáng để các thế hệ mai sau học hỏi và thi đua.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *